Chọn ngành học qua số liệu… thất nghiệp
Tham khảo số liệu mới nhất của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội với 225.500 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp, thí sinh nên cân nhắc kỹ để tránh những ngành học đang thừa nhân lực.
Báo cáo mới nhất của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ngày 24/12/2015 cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp chung đã giảm nhưng số lượng người có trình độ đại học, sau đại học thất nghiệp tăng cao: 225.500 người.
Dư thừa nhân lực “ngành hot”
Nếu như trước đây, Kế toán – Kiểm toán hút nhân lực với thu nhập cao, thì hiện nay, đây là một trong ngành dư thừa lao động. Kết quả khảo sát tình hình cung – cầu lao động trên địa bàn Hà Nội quý ba năm 2015 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, nhóm ngành này đang có chênh lệch nguồn cung gấp 11,8 lần so với nhu cầu của xã hội.
Biểu đồ thống kê quý ba năm 2015 cho thấy số lao động trình độ đại học thất nghiệp nhiều hơn hẳn các trình độ cao đẳng, trung cấp, sơ cấp. Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Hiện nay, tính riêng khu vực Hà Nội, gần 30 trường đại học đào tạo ngành Kế toán – Kiểm toán. Dù các thống kê vài năm gần đây cho thấy ngành này đang dư thừa nhân lực, các trường vẫn tuyển với chỉ tiêu ở mức cao.
Năm 2015, Đại học Công nghiệp Hà Nội tuyển sinh ngành Kế toán với 480 chỉ tiêu, lớn thứ ba trong số 24 ngành đào tạo đại học của trường.
Đại học Công Đoàn tuyển 350 chỉ tiêu ngành Kế toán, trong khi những ngành khác như Công tác xã hội, Xã hội học, Bảo hộ lao động chỉ tuyển 150 chỉ tiêu.
Năm 2016, ngành Kế toán tiếp tục được mở thêm ở một số trường trên cả nước như Đại học Công nghiệp TP HCM, Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu…
Theo thống kê quý hai của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nhu cầu tìm việc làm ngành Kế toán – Kiểm toán cao nhất cả nước với 25,44%. Đến quý ba, nhóm nghề có người đăng ký tìm việc nhiều nhất vẫn là Kế toán tài chính (22,1%), xếp sau là Quản trị nhân sự (12,8%), Quản trị kinh doanh (7,6%).
Bên cạnh Kế toán – Kiểm toán, ngành Tài chính – Ngân hàng cũng ghi nhận số cử nhân thất nghiệp gia tăng.
Thống kê quý hai năm 2015, các ngành – nghề mà người lao động khó tìm được việc làm nhất là: Nhân viên ngân hàng, Nhân viên hành chính – Văn phòng, Kế toán và một số ngành kỹ thuật như Hóa dầu, Sinh học, Hóa chất.
Trong khi đó, kỳ thi năm ngoái, ngành Tài chính – Ngân hàng vẫn được tuyển sinh ở nhiều trường với số chỉ tiêu lớn. Ví dụ, Đại học Đại Nam tuyển 250 chỉ tiêu, Đại học Sài Gòn tuyển 350, Đại học Tôn Đức Thắng 180… Lượng chỉ tiêu ngành này luôn vượt trội so với những ngành còn lại.
Đến tháng 10 và 11/2015, Tài chính trở thành nhóm nghề có nhiều người tìm việc nhất cả nước (21,9%), tiếp đến là Quản trị nhân sự (11,1%), Kế toán (10,5%)…
Những ngành nghề dễ xin việc làm
Video đang HOT
Trong khi cử nhân đại học thất nghiệp nhiều thì tình trạng thiếu lao động vẫn xảy ra ở một số nghề như nhân viên kinh doanh, nhân viên chăm sóc khách hàng, giám sát bán hàng tại siêu thị (27,8%); tiếp đến là nhân viên tư vấn tín dụng, đầu tư tài chính (14,6%); kỹ sư cơ khí, bảo trì, thợ hàn, vận hành dây truyền (11,2%); lao động quản lý chất lượng, thủ kho, nhân viên kỹ thuật (8%).
Trong tháng 10 và 11/2015 có 7.257 doanh nghiệp đăng ký tuyển dụng với tổng số cần tuyển 58.591 người. Trong đó, nhu cầu tuyển dụng của nhóm công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao (40,83%).
Theo PGS.TS Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TP HCM, Công nghệ thông tin đang là ngành đòi hỏi nhu cầu nhân lực lớn. Năm 2015, trường tuyển sinh ngành này với 300 chỉ tiêu, các chuyên ngành gồm Hệ thống thông tin, Kỹ thuật phần mềm, Quản trị mạng. Trường dự kiến mở thêm chuyên ngành An ninh mạng để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực này.
Nhóm ngành Công nghệ và Kỹ thuật dự kiến cũng có nhu cầu nhân lực cao trong những năm tới. Sự kết hợp giữa nhóm ngành trên dẫn đến sự xuất hiện các ngành: Kỹ thuật thương mại, Quản trị viên của các ngành kỹ thuật.
Những ngành này đòi hỏi tính ứng dụng cao, do đó ngoài mặt lý thuyết, học sinh cần rèn luyện khả năng thực hành, kỹ năng làm việc nhóm và quản lý thời gian hiệu quả.
Một ngành học khác dự kiến cũng có nhu cầu nhân lực cao trong vài năm tới là Tâm lý học. Theo tiến sĩ tâm lý Phạm Mạnh Hà, giảng viên Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, Bộ GD&ĐT đang dự thảo đề án đưa cán bộ tâm lý học đường vào các trường phổ thông.
Theo đó, mỗi trường đều phải có cán bộ chăm sóc tâm lý cho học sinh. Đây là cơ sở để nhu cầu nhân lực ngành Tâm lý học tiếp tục tăng và đi sâu vào các chuyên ngành Tâm lý học tham vấn, Tâm lý học trị liệu.
Thí sinh có thể học ngành này tại các trường lớn như Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa tâm lý Đại Sư phạm Hà Nội, Đạị học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội.
“Trống” định hướng nghề nghiệp
Trước đó, trao đổi với Zing.vn về vấn đề 225.500 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp, PGS Văn Như Cương – Chủ tịch Hội đồng Quản trị trường THPT Lương Thế Vinh (Hà Nội) cho rằng, nước ta đang tồn tại phong trào hiếu học đến lạc hậu, học vì hư danh. Người người, nhà nhà đều muốn tốt nghiệp cử nhân, thạc sĩ, ngành nào cũng được, chủ yếu để “oai”. Nhiều trường dạy nghề, đảm bảo công việc sau tốt nghiệp nhưng ít người học.
Đồng tình ý kiến trên, PGS Trần Xuân Nhĩ – nguyên Thứ trưởng GD&ĐT – nhận định, tâm lý chung của nhiều người là thích học đại học và học lên cao, không cần biết có cơ hội xin việc làm hay không. Trong khi đó, nhu cầu của người học lại mâu thuẫn với việc chất lượng đào tạo giáo dục đại học.
Tất cả những nguyên nhân trên xuất phát từ việc “trống” hướng nghiệp trong nhà trường. Điều này dẫn đến tâm lý, học sinh không hiểu được sở thích bản thân, nhu cầu xã hội, cứ nghĩ theo đại học mới thành tài.
Trong khi đó, “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, một người đầu bếp giỏi cũng có thể đi khắp thế giới và thành đạt. Công việc phải đáp đứng được kinh tế và nhu cầu của gia đình, xã hội. Vì vậy, định hướng nghề nghiệp phải được thực hiện từ bậc THCS.
Theo Zing
Đại học ồ ạt mở ngành và nguy cơ 'được mùa mất giá'
Tiến sĩ Phạm Mạnh Hà, chuyên gia tư vấn hướng nghiệp, cho rằng, nhiều học sinh thiếu thông tin nên chọn nghề không phù hợp bản thân hoặc khó xin được việc làm sau khi tốt nghiệp.
Sau khi một số trường đại học thông báo tuyển sinh cho ngành mới trong năm 2016, tiến sĩ Phạm Mạnh Hà - chuyên gia tư vấn hướng nghiệp (Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam) cảnh báo, thí sinh dễ chọn sai ngành vì thiếu thông tin.
Thí sinh làm bài thi THPT quốc gia 2015. Ảnh: Anh Tuấn.
Mở nhiều ngành mới
Trong kỳ tuyển sinh 2016, Đại học Công nghiệp TP HCM dự kiến tuyển sinh thêm 15 ngành học mới, gồm: Công nghệ kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, Công nghệ kỹ thuật máy tính, Công nghệ chế tạo máy, Công nghệ kỹ thuật xây dựng, Công nghệ kỹ thuật giao thông, Công nghệ thông tin, Kỹ thuật phần mềm, Hệ thống thông tin, Khoa học môi trường, Quản lý tài nguyên và môi trường, Kiểm toán, Marketing, Kinh doanh quốc tế, Luật kinh tế, Luật quốc tế.
Thạc sĩ Nguyễn Thanh Tùng, Phó hiệu trưởng Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long cho biết, năm nay, trường dự kiến tuyển 1.400 chỉ tiêu đại học chính quy, 180 chỉ tiêu cao đẳng (giảm 50% so với 2015). Trong đó, trường tuyển sinh 2 ngành mới là Thú y (thi khối B) và Công tác xã hội (khối C), mỗi ngành 50 chỉ tiêu.
Theo thạc sĩ Lê Văn Toàn, Trưởng phòng Đào tạo, Đại học Bà Rịa Vũng Tàu, trường sẽ mở 5 chuyên ngành mới gồm: An ninh thông tin, Cơ khí ô tô, Kỹ thuật phân tích, Kế toán ngân hàng, Đông Nam Á học, bổ sung tổ hợp môn Toán - Vật lý - Lịch sử; Toán - Vật lý - Địa lý.
Đại học Nguyễn Tất Thành cũng dự kiến mở thêm 12 ngành mới (8 ngành đào tạo trình độ đại học và 4 ngành trình độ thạc sĩ). Cụ thể, trình độ đại học có các ngành: Thiết kế thời trang, Thiết kế nội thất, Thanh nhạc, Piano, Marketing, Đạo diễn điện ảnh truyền hình, Quay phim, Diễn viên kịch điện ảnh. Trình độ thạc sĩ có 4 ngành: Công nghệ sinh học, Tài chính ngân hàng, Công nghệ thông tin, Quản trị kinh doanh.
Việc các trường mở nhiều ngành học mới giúp thí sinh có thêm lựa chọn. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia tư vấn cảnh báo, nếu các em không tìm hiểu, cân nhắc kỹ, chỉ đăng ký xét tuyển theo phong trào, dễ dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
Những kịch bản rủi ro
Theo thống kê của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, trong quý 2 năm 2015, cả nước có gần 199.400 lao động trình độ đại học, sau đại học thất nghiệp.
Môt trong nhưng nguyên nhân chính la lựa chọn ngành học của học sinh chưa sát thực tế, nhiều người dễ bị hút vào những trường có ngành "hot" mà không cân nhắc nhu cầu nhân lực.
PGS Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội, cho rằng, các ngành mới mở đều nằm trong danh mục đào tạo của Bộ GD&ĐT và có thể được một số trường khác đã triển khai đào tạo.
Thí sinh có thể tham khảo về chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất và thực trạng việc làm của sinh viên ra trường. Trong đó, việc tra cứu thông tin về hướng đầu ra của ngành, cũng như trường có cam kết và xác định rõ đầu ra cho sinh viên không, khá quan trọng.
Còn tiến sĩ Phạm Mạnh Hà nói, những ngành mới mở thường có 2 mục đích: Có thể xuất phát từ nhu cầu đào tạo nhân lực thực tế, nhưng cũng có thể các trường cố ý đặt tên ngành hấp dẫn để thu hút thí sinh.
Sự lẫn lộn giữa 2 mục đích này khiến các em có thể bị nhiễu thông tin, đôi khi chỉ nhìn tên ngành hấp dẫn, cộng với việc nghe quảng cáo thấy nhiều người ra trường xin được việc là nộp hồ sơ. Những yếu tố như năng lực bản thân hay chất lượng đào tạo không được xem xét kỹ.
Là chuyên gia tâm lý học hướng nghiệp, ông Hà nhận thấy cách chọn ngành học của nhiều thí sinh hiện nay khá giống với cách chọn giống cây trồng của người nông dân: Thiếu thông tin dẫn đến "được mùa mất giá".
Tiến sĩ Phạm Mạnh Hà.
Vòng luẩn quẩn này bắt đầu từ việc các trường mở ngành ồ ạt, không xét tới năng lực đào tạo và nhu cầu nhân lực. Nghe thấy tên ngành hấp dẫn, thí sinh cũng ồ ạt lao vào học. Quá nhiều người học dẫn đến nguồn nhân lực dư thừa, "được mùa mất giá".
Đến lúc đó, sinh viên cũng rất khó tìm công việc trái ngành, vì các ngành mới mở đa phần mang tính đặc thù, đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực cụ thể.
"Khi muốn học ngành mới mở tại trường dân lập, thí sinh cần tìm hiểu trường đó uy tín không? Nếu là trường chất lượng cao, có liên kết quốc tế thì có thể cân nhắc. Nếu không xác định được chất lượng đào tạo, thí sinh nên chọn một trường công lập có thâm niên đào tạo ngành này. Tránh tình trạng học trường kém uy tín dẫn đến bằng cấp không được các doanh nghiệp đón nhận", vị tiến sĩ tâm lý này tư vấn.
Một kịch bản rủi ro khác cũng được giảng viên Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam đề cập là thí sinh chọn được ngành đào tạo chất lượng với nhu cầu nhân lực cao, nhưng bản thân không có tố chất phù hợp ngành. Đây chính là yếu tố "phù hợp nghề" mà nhiều thí sinh và phụ huynh ít quan tâm.
Bốn bước chọn nghề cho thí sinh
Sau nhiều năm nghiên cứu, tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, tiến sĩ Phạm Mạnh Hà đưa ra lời khuyên các bước chọn ngành, nghề như sau:
Bước 1: Tôi thích nghề gì?
Liệt kê những nghề mà bản thân biết và có hứng thú. Mong muốn của tôi về nghề nghiệp có thể đáp ứng: Cơ hội thăng tiến; Môi trường làm việc; Thu nhập; Giờ giấc; Tính chất công việc hấp dẫn; Uy tín xã hội. Sau đó, bạn lập danh sách thứ tự ưu tiên của các nghề.
Bước 2: Tôi phù hợp nghề gì.
Học sinh tìm hiểu yêu cầu của từng nghề (năng lực, tính cách, điều kiện lao động...), có thể tham khảo ở mục tuyển dụng trên các báo, tạp chí. Trên cơ sở đó, bạn tìm ra các điểm chung giữa yêu cầu của nghề và khả năng đáp ứng của bản thân.
Bước 3: Tôi chọn nghề gì?
Nghề bản thân thích; Nội dung công việc; Điều kiện lao động; Giá trị ý nghĩa đối với bản thân; Các cơ hội - nghề bản thân có năng lực đáp ứng; Sức khỏe; Năng lực học tập; Điều kiện gia đình.
Bước 4: Tôi nên học tập ở đâu?
Nghề đó thuộc lĩnh vực nào - Trường nào có đào tạo lực vực đó; Lập danh sách ưu tiên các trường công lập - dân lập; Điểm chuẩn - chỉ tiêu tuyển sinh; Danh tiếng - uy tín (thời gian thành lập - thành tích); Thời gian đào tạo (đại học - cao đẳng - trung cấp); Địa điểm đào tạo (gần nhà - xã nhà).
Theo Zing
Vì đâu cả nước thừa hàng vạn giáo viên? Hiện cả nước đang có tới 3,5 vạn giáo viên dư thừa ở các cấp học. Đào tạo tràn lan là nguyên nhân khiến có hàng chục nghìn giáo viên dư thừa, không tìm được việc dạy học. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, cả nước hiện đang thừa khoảng 35.000 giáo viên bậc THCS và THPT. Thừa giáo viên là tình trạng...