Chọn lọc dòng vốn mới
Theo Tổng cục Thống kê, trong những năm qua, Việt Nam được thế giới ghi nhận là một trong những quốc gia có tăng trưởng GDP cao hàng đầu thế giới, với quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001.
Xưởng lắp ráp động cơ xe máy Vespa tại Công ty TNHH Piaggio Việt Nam, khu công nghiệp Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Tốc độ tăng GDP bình quân trong giai đoạn 2001-2010 tăng 7,26%/năm, đạt xấp xỉ tốc độ tăng 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000. Có được những thành tựu này cũng nhờ Việt Nam huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; trong đó, có thu hút thành công vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI). Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam
Sau hơn 30 năm mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã gặt hái những thành quả đáng khích lệ. Đến nay, tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đạt hơn 370 tỷ USD; trong đó, lượng vốn đã giải ngân đạt khoảng 58%. Riêng năm 2019, Việt Nam thu hút hơn 38 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm liên tiếp, tăng 7,2% so với năm 2018. Vốn FDI giải ngân cũng đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7% và lập kỷ lục mới. Khu vực đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm, thu ngân sách cũng như thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam…
Bắt đầu kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời vào tháng 12/1987, cho đến nay, Việt Nam đã trải qua quá trình hơn 30 năm thu hút nguồn vốn FDI. Có thể nói, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành khu vực kinh tế quan trọng của Việt Nam.
Đánh giá về những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thu hút FDI, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, thu hút FDI là tạo thêm nguồn lực thông qua việc mở ra một kênh đầu tư mới cho phát triển.
Đã có hơn 182 tỷ USD vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, được thực hiện trong hầu hết các ngành nghề và lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, từ nguồn vốn này đã hình thành những ngành công nghiệp chủ lực như: viễn thông, dầu khí, điện tử, hóa chất, thép, ô tô – xe máy, công nghệ thông tin, da giày, dệt may, chế biến nông sản thực phẩm…
Qua đó, FDI đã đóng góp lớn trong việc gia tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Đến nay, khu vực FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Ngoài ra, khu vực FDI cũng đã góp phần tăng thu ngân sách, tạo việc làm cho người dân, ổn định tình hình xã hội. Khu vực này tạo ra khoảng 3,5 triệu việc làm trực tiếp và gần 5 triệu việc làm gián tiếp; trong đó, có nhiều lao động đã được đào tạo và tiếp cận với trình độ công nghệ, quản lý tiên tiến của thế giới.
Thu hút FDI còn góp phần cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, giúp nâng cao tầm vóc, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời, tạo ra những áp lực để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế nhanh hơn, hiệu quả hơn và thực chất hơn theo hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Video đang HOT
Mặc dù, đầu tư nước ngoài 8 tháng năm 2020 giảm sút so với cùng kỳ năm trước, song xét trong bối cảnh đầu tư toàn cầu suy giảm rất mạnh do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thì kết quả này tốt hơn nhiều quốc gia khác. “Điều này đã thể hiện sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt giới đầu tư quốc tế”, Cục Đầu tư nước ngoài nhận định.
Trong 8 tháng năm 2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 19,54 tỷ USD, bằng 86,3% so với cùng kỳ năm 2019. Tuy nhiên, trong đó, vốn đăng ký mới và tăng thêm vẫn tăng mạnh. Cụ thể, có 1.797 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn 9,7 tỷ USD, tăng gần 7%% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 8 tháng ước đạt 11,45 tỷ USD, bằng 95,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Đỗ Nhất Hoàng cũng cho rằng, kết quả trên là hoàn toàn chấp nhận được trong bối cảnh hoạt động đầu tư toàn cầu suy giảm rất mạnh; một số nền kinh tế rơi vào tăng trưởng âm. Điều đó còn cho thấy niềm tin, mục tiêu hiện diện, làm ăn lâu dài tại Việt Nam là rất mạnh mẽ và đó chỉ là sự sụt giảm tạm thời trong thời “bão” COVID-19.
Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng lưu ý, ngày càng xuất hiện những dự án có công nghệ hiện đại, tập trung vào hoạt động nghiên cứu và chế tạo để tạo ra sản phẩm chất lượng, có tác dụng lan tỏa và tham gia đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.
Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày càng cao và tăng lên tương đối nhanh, đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ được thị trường thế giới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ cho nền kinh tế; đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chớp lấy thời cơ “vàng”
Dây chuyền tự động súc rửa vỏ lon trước khi đưa vào hệ thống chiết rót bia tự động tại nhà may bia Sapporo Viêt Nam. Ảnh: Minh Hưng/TTXVN
Từ góc nhìn quốc tế, hiện nay, uy tín và vị thế của Việt Nam đang được đánh giá cao qua những thành công bước đầu đạt được trong phòng, chống đại dịch COVID-19. Nhiều chuyên gia kinh tế có uy tín trong và ngoài nước đã nhận định, đây là thời cơ quý báu, không dễ gì có được khi Việt Nam đang hội tụ đầy đủ các yếu tố và điều kiện để tạo nên cú hích lớn cho sự phát triển thần kỳ. Chính vì vậy, ngay lúc này Việt Nam cần phải có những hành động nhanh và mạnh hơn để hỗ trợ doanh nghiệp chớp lấy thời cơ “vàng”, nhằm phục hồi và phát triển bứt phá, kích thích tăng trưởng.
Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng cho biết, làn sóng đầu tư mới đã xuất hiện và Việt Nam đứng trước cơ hội mới, hứa hẹn sự gia tăng mạnh về kết quả thu hút dòng vốn này. Vấn đề là sự chuẩn bị kỹ càng, có giải pháp đồng bộ, phù hợp để biến cơ hội thành hiện thực, phục vụ mục tiêu lấy lại tốc độ tăng trưởng cao càng sớm càng tốt…
Trước những “cơ hội vàng” để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
GS-TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho biết, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua những tác động của dịch bệnh COVID-19; tiếp theo, cần chủ động quảng bá, mời gọi các tập đoàn đa quốc gia, các công ty và thương hiệu tên tuổi đầu tư vào Việt Nam; đặc biệt là từ các khu vực có thế mạnh về công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý như: Mỹ, EU, Nhật Bản.
Nguyên Cục trưởng Đầu tư nước ngoài, ông Phan Hữu Thắng cho rằng, để đón dòng vốn nước ngoài nhanh chóng, Việt Nam cần tăng cường xúc tiến đầu tư thông qua các cơ quan ngoại giao. Cùng với đó, Việt Nam tập trung giải quyết nhanh các thủ tục hành chính đối với các dự án có quy mô lớn đang đàm phán, xin cấp phép đầu tư, cũng như hỗ trợ tích cực giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình giải ngân của dự án đã cấp phép.
Để tăng cường thu hút đầu tư FDI, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã đề xuất 4 nhóm giải pháp gồm: Nhóm giải pháp liên quan đến xúc tiến đầu tư; nhóm thu hút đầu tư có chọn lọc (theo đó sẽ thu hút những dự án có giá trị gia tăng cao, có tính lan tỏa, kết nối doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam); tiếp đến là nhóm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và chuẩn bị điều kiện để đón các nhà đầu tư. Cuối cùng là nhóm liên quan đến ưu đãi hỗ trợ đầu tư (Luật Đầu tư sửa đổi và các Luật khác có liên quan đã bổ xung những ưu đãi mang tính cạnh tranh tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư).
Đẩy mạnh thu hút FDI, cuối tháng 6 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký quyết định thành lập Tổ công tác thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài. Tại cuộc họp Tổ công tác đầu tiên, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh, Tổ trưởng Tổ công tác nêu rõ, Việt Nam đang được xác định là một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn. Đây là thời điểm thuận lợi cho Việt Nam để thu hút có chọn lọc dòng vốn đầu tư nước ngoài mới phù hợp với nhu cầu của Việt Nam, song cũng cần nhận diện rõ, xử lý các thách thức khách quan và chủ quan trong hợp tác đầu tư nước ngoài và cần có những hành động và giải pháp đột phá để kịp thời thu hút dòng vốn.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cũng yêu cầu Tổ công tác cần khẩn trương, quyết liệt hơn nữa để thực hiện các nhiệm vụ đã được Thủ tướng giao; trong đó, việc thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài cần hướng tới có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Mặt khác, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, chuyển giao công nghệ, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Trong quá trình đó, đặc biệt lưu ý coi trọng phát triển doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác của Việt Nam, có giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển.
Hiện nay, trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, khu vực EU đầu tư vào Việt Nam hơn 25 tỷ USD, tuy chưa phải là nhiều nhưng tiềm năng quan hệ kinh tế giữa hai bên là rất lớn. Các doanh nghiệp châu Âu có tiềm lực tài chính với công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại và sẵn có thị trường rộng lớn. Những điều này có tính bổ trợ với thế mạnh và nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Với những cơ chế bảo hộ và ưu đãi đặc biệt từ hai Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu ÂU (EVFTA) và Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu ÂU (EVIPA), cùng với những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, ông Đỗ Nhất Hoàng tin tưởng, từ 2 Hiệp định này sẽ mở ra một giai đoạn mới để cho các nhà đầu tư của EU quan tâm hơn nữa và hiện thực hóa những lợi ích do Hiệp định mang lại. Tuy nhiên, tác động của cuộc khủng hoảng COVID-19 đang diễn ra là khó dự đoán, tùy thuộc vào quy mô và thời gian kéo dài cua dịch bệnh.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, dịch COVID-19 cũng cho thấy, muốn đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu để lấp ngay vào sự đứt gẫy của chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cần phải cải cách mạnh mẽ hơn để kinh tế phục hồi trong thời gian tới như cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh tế số, nâng cao hiệu quả đầu tư công.
“Đây là các nội dung chính mà Việt Nam cần thực hiện để cải cách nhanh và mạnh hơn, hướng mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Thu hút FDI - Điểm sáng kinh tế trong đại dịch
Trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước trên đà suy giảm do chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, thu hút FDI từ đầu năm đến nay đã đạt được những kết quả tương đối khả quan. Dù chưa thoát ra được đà suy giảm song mức giảm đã được rút ngắn lại so với những tháng đầu năm, cho thấy đây là một trong những điểm sáng có thể bù đắp được một phần cho tăng trưởng kinh tế năm nay.
Kết quả thu hút FDI 7 tháng năm 2020 tương đối khả quan. Ảnh: ST
Một số tín hiệu tích cực
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), trong 7 tháng năm 2020, tổng vốn đầu tư nước ngoài rót vào Việt Nam đạt 18,82 tỷ USD, bằng 93,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, có 1.620 dự án mới đăng ký đầu tư vào Việt Nam, tuy giảm 21,5% so với cùng kỳ năm 2019 về số lượng dự án song lại tăng về vốn với tổng vốn đăng ký đạt 9,46 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Một trong những nguyên nhân làm tăng vốn đầu tư chủ yếu là do Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu với tổng vốn đầu tư 4 tỷ USD (chiếm 42,3% tổng vốn đăng ký mới). Dự án lớn này cũng đã đẩy quy mô dự án bình quân tăng hơn so với cùng kỳ năm 2019, từ 4,3 triệu USD năm 2019 lên 5,8 triệu USD trong năm 2020.
Tương tự, vốn điều chỉnh cũng giảm về số lượng dự án điều chỉnh nhưng lại có sự tăng trưởng về số vốn. Theo đó, đã có 619 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư, giảm 21,7% về số lượng dự án, nhưng tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 4,7 tỷ USD, tăng tới 37,7% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, chỉ tính riêng trong tháng 7, cả nước đã thu hút được 3,15 tỷ USD tăng tới 79,8% so với cùng kỳ năm 2019 và tăng 76,2% so với tháng trước đó. Đặc biệt, trong tháng 7/2020, lần đầu tiên, quốc đảo Malta, thường được biết đến như là một "thiên đường thuế" đã có nhà đầu tư dự án mới tại Việt Nam, nâng tổng số quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam lên 137 đối tác. Đây là những tín hiệu tích cực, thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Đánh giá về thu hút FDI trong những tháng đầu năm 2020, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT cho biết, vốn đầu tư trong tháng 7/2020 tăng mạnh so với các tháng trước, chỉ sau tháng 4/2020 và so với cùng kỳ năm 2019. Quy mô dự án đầu tư mới, điều chỉnh cũng như quy mô góp vốn mua cổ phần đều tăng lên đáng kể, đạt 5,1 triệu USD/dự án mới, 10,7 triệu USD/lượt điều chỉnh vốn và 3,4 triệu USD/lượt góp vốn mua cổ phần.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, đại dịch Covid-19 đã có những tác động tiêu cực tới nền kinh tế thế giới, trong đó các hoạt động sản xuất, kinh doanh đã bị đình trệ, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh khó khăn. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài tiếp tục giảm trong 7 tháng đầu năm, chỉ bằng 95,9% so với cùng kỳ, song mức độ giảm đang cải thiện dần so với các tháng trước đó.
Bên cạnh đó, việc đi lại của các nhà đầu tư cũng như các quyết định đầu tư mới và mở rộng quy mô dự án đầu tư nước ngoài vẫn còn bị ảnh hưởng. Số dự án mới, điều chỉnh vốn đều giảm so với cùng kỳ, nhất là các dự án đăng ký mới (giảm cả trong tháng 7 và 7 tháng). Mặc dù vốn đầu tư cấp mới và tăng vốn tăng lên, song vẫn chủ yếu tăng là nhờ các dự án lớn, đã được nộp hồ sơ và đàm phán trong một thời gian dài trước đó.
Cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư
Để thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động làm suy giảm tăng trưởng, Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này. Cụ thể, trong tháng 7, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7/2020, trong đó, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi, tiết giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp. Chính phủ yêu cầu từng bộ, ngành, địa phương thành lập Tổ công tác đặc biệt thu hút FDI do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm Tổ trưởng để phối hợp với Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ tập trung giải quyết các vướng mắc, thúc đẩy thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài đang dịch chuyển, nhất là từ các công ty đa quốc gia, có công nghệ tiên tiến.
Tuy nhiên, mới đây, một tin không mấy vui đối với Việt Nam đó là việc ông lớn Apple có thể đang cân nhắc tạm ngừng kế hoạch sản xuất IPhone tại Việt Nam sau khi có chuyến thăm nhà máy của Luxshare, một trong những đối tác lắp ráp iPhone của Apple (tại khu công nghiệp Vân Trung, Bắc Giang) để đánh giá khả năng sản xuất iPhone tại cơ sở này. Điều này như hồi chuông cảnh báo đối với Việt Nam trong việc chuẩn bị các điều kiện để đáp ứng các tiêu chuẩn của các DN lớn. Bên cạnh khẳng định sự nỗ lực của Việt Nam trong viêc cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư, nhiều chuyên gia cũng từng có ý kiến lo ngại về những hạn chế có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hút đại bàng của Việt Nam. "Trong 10 năm qua, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã tốt lên rất nhiều, nhưng tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chưa bằng các nước lân cận đang có thế mạnh thu hút FDI như Thái Lan, Indonesia", chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu lưu ý.
Trước đó, tại diễn đàn bất động sản công nghiệp được tổ chức hồi giữa năm 2020, GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, Việt Nam đang mong đón được những dự án, những nhà đầu tư lớn và bất động sản công nghiệp là một yếu tố quan trọng thúc đẩy vấn đề này. Tuy nhiên, chất lượng quản lý khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất hạn chế... Ông cũng cho rằng, hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn chưa sẵn sàng để đón "đại bàng". Cũng tại diễn đàn này, chia sẻ kinh nghiệm "dọn tổ đón đại bàng", ông Phạm Minh Phương, Chủ nhiệm CLB Ban quản lý các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế, Trưởng ban quản lý các KCN tỉnh Hải Dương cho rằng, để đón được "đại bàng" cần có diện tích đất đai lớn, cần chuẩn bị nhiều đất sạch, cần nhiều KCN để đón các nhà đầu tư lớn.
Thành tựu 75 năm phát triển kinh tế: Chọn lọc dòng vốn FDI mới Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Công nhân Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam sản xuất điện thoại thông minh. (Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN) Theo Tổng cục Thống kê, trong những năm qua, Việt Nam được...