Chiến tranh biên giới 1979 và những câu chuyện cảm động thời bình
Phố tôi có bác bán bánh mỳ bị điên. Hay nói một mình. Thỉnh thoảng lấy tay đấm vào đầu liên tục.
Chiến tranh biên giới 1979 và những câu chuyện cảm động thời bình
Phố tôi có bác bán bánh mỳ bị điên. Hay nói một mình. Thỉnh thoảng lấy tay đấm vào đầu liên tục.
Lúc khỏe, bác sẽ bán bánh mỳ, hiền lành, cười với hàm răng chiếc còn chiếc mất. Một bên mắt bị hỏng, hoặc có nhìn được hay không tôi không biết. Nó đục ngầu. Có lẽ chính vì vậy mà bác hay trả nhầm tiền. 15 nghìn cái bánh mỳ, có khi bác trả lại cả 20 nghìn. Có người cứ thế cầm mà đi.
Lũ trẻ con cũng hay trêu bác, vì bác vừa đi vừa nói nhảm, lại hay đấm tay vào đầu. Chúng nó trêu, hò hét cái câu gì đó mất dạy, sau đó hò nhau chạy. Lần nào bác cũng dậm dậm chân dọa rồi lại thôi.
Bác có mảnh đạn còn găm trong đầu. Biên giới năm 1979. Nó không bao giờ được lấy ra. Câu chuyện chỉ được kể khi tôi ngồi đợi vợ bác tráng trứng cho vào bánh mỳ. Vợ bác nói: “Trở trời thế này là đầu đau lắm, nhà phải có người trông, không là đập phá đồ đạc. Đi lang thang, người ta đánh cho thì khổ.”
Câu chuyện cắt đứt mạch ở đó. Mảnh đạn không lấy ra giống như câu chuyện không bao giờ được kể cho trọn vẹn. Và rồi nó sẽ bị lãng quên.
Bác đã mất được 2 năm.
Tôi ngồi nhậu. Quán vỉa hè. Người lính đi chiếc xe đạp cũ. Lặng lẽ đứng nép một góc, cây sáo trúc thổi khúc nhạc quê. Tiếng sáo bị át bởi những chiếc loa công suất lớn, bài nhạc trẻ thịnh hành, những xô bồ cười nói, chúc nhau cốc bia, chén rượu.
Vài cái bật lửa, cây bút, cái cắt móng tay trong chiếc rỏ để trên yên sau xe. Không cạnh tranh nổi với kẹo cao su chào mời tận bàn, sau bài hát đầy ngẫu hứng của ca sĩ đường phố. Người lính già không chào mời ai.
Tôi đứng dậy xin mua chiếc bật lửa. 5 nghìn. Tôi đưa 20 nghìn. Chú móc bịch nilon được cuộn chặt ở túi áo trước đếm tiền trả. Áo lính xanh đã bợt hết màu, mũ cối – chỉ sứt lỗ chỗ.
Tôi nói: “Con biếu chú.” Chú chắp tay cảm ơn. Hỏi “Cậu có thích bài nào không?”
Tôi lắc đầu.
“Chú trước đi bộ đội ở đâu chú?”
“Quảng Trị năm 72 cậu ạ.” – Mắt chú chỉ ánh lên một chút – Rồi lại tắt.
…..
Video đang HOT
Chú tôi, ngày tôi còn nhỏ chỉ thích được ngồi sau xe chú, chú chở đến lớp. Kể câu chuyện bom đạn khi xưa. Tôi rất hào hứng, trẻ con không hiểu được chuyện, chỉ thấy bom đạn bắn nhau là sướng rồi.
Tôi hỏi chú đã bắn được đứa nào chưa. Chú không bao giờ trả lời. Chú chỉ bảo: “Mày còn nhỏ, đừng nghĩ đến bắn giết.”
Chú giải ngũ, làm nghề sửa xe máy. Vẫn con xe xu hào cũ, áo lính lấm lem, khắp người toàn dầu mỡ. Vợ chú ở nhà bán thêm tủ kem, lần nào chú đón tôi cũng được chiêu đãi.
Ngày tôi đi du học, chú lên chào, vẫn dúi cho tôi 500 nghìn tiền taxi đi sân bay, không nhận không được.
Chú nói chuyện với bố.
“Hôm nay giỗ Trúc, Biên, Khang, Hợi..” – vài cái tên tôi không nhớ nổi – “Bom chết cùng một ngày, em mới ở Quảng Trị về đấy chứ.”
Chú kể, uống nước trong cái hào, nắng cạn toàn xác đồng đội bên dưới. Chú chiến đấu ở Quảng Trị, rồi lại lên đường đi Biên Giới.
Chú mất năm ngoái, tôi bay về chỉ kịp thắp nén hương tàn.
Chú bị điếc một bên tai do áp lực của bom.
…..
17/2/79
Súng nổ dồn nơi Biên Giới. Đại Bác đốt cháy Hoàng Liên Sơn.
Thanh niên viết đơn bằng máu để lên đường ra trận. Có hàng vạn người không bao giờ trở về nữa. Đất Mẹ cần. Người ta đi giữ mảnh trời quê hương.
17/2/2017
Giữa những siêu phẩm của Robben, Casemiro, giữa những triệu view, nghìn view You Tube, những dư âm của Valentine còn lại.
Tôi không quên Biên Giới năm 79. Sách sử có thế không ghi, nhưng tôi vẫn nhớ nằm lòng.
Vang vang như câu hát của Hải Bột:
“Trời hòa bình có xanh như, ngày xưa ngắm nhìn?”
…..
Cảm ơn các anh, các chú, các bác. Xin kính cẩn nghiêng mình.
Theo Báo Phụ Nữ
Cuộc chuyển quân thần tốc tháng 2/1979 Kỳ 2: Tháo ghế Boeing 707 và đường băng thắp đèn dầu
"Trong lịch sử hàng không dân dụng thế giới, tôi chưa đọc thấy một tài liệu nào nói dùng máy bay dân dụng để chở quân và cả vũ khí. Vậy mà lúc đó chiếc Boeing 707 không chỉ chở quân mà còn chở cả súng ống, đạn dược".
Ông Huỳnh Minh Bon bây giờ - Ảnh: My Lăng
Ông Huỳnh Minh Bon (85 tuổi, cựu cơ trưởng - phi công của Đoàn bay 919, thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam) nói.
Tháo ghế Boeing 707
Boeing 707 thuộc dòng máy bay phản lực chở khách đầu tiên được sản xuất tại Mỹ, là máy bay chở khách lớn nhất lúc bấy giờ với sức chứa 181 hành khách, tốc độ 966km/h.
Năm 1979, Việt Nam chỉ có duy nhất một máy bay Boeing. Và người có thể lái Boeing lúc đó chỉ có duy nhất phi công Huỳnh Minh Bon - người của chế độ Sài Gòn được trưng dụng làm việc cho ngành hàng không Việt Nam lúc đó.
Trước năm 1975, ông Huỳnh Minh Bon là phi công của Công ty Hàng không Việt Nam (Air Vietnam).
Tôi bay nhanh lắm. Bay liên tục chỉ gần một tuần là xong nhiệm vụ. Lúc đó chuyển quân gấp mà. Tôi nói bay được là bay, dù mệt cũng bay Ông Huỳnh Minh Bon
"Mấy anh lãnh đạo gặp tôi và nói: tình hình bây giờ nếu chỉ chở quân bằng An-12, C-119, C-130... thì không kịp. Boeing là máy bay chở được nhiều khách nhất lúc đó. Họ hỏi tôi có thể dùng Boeing chở quân không. Tôi nói được.
Lúc đó thiếu tướng Trần Mạnh, đang là phó tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam, hỏi tôi: anh có thể chở được cả vũ khí không vì tới nơi là chúng tôi phải chiến đấu ngay chứ không thể chờ 2-3 ngày, một tuần lễ sau mới có vũ khí chiến đấu.
Khi tôi học ở nước ngoài, vũ khí và chất nổ nghiêm cấm đưa lên máy bay dân dụng.
Tôi biết nhiệm vụ này rất nguy hiểm nhưng đất nước đang cần mình. Tôi trả lời: Tôi làm được! Trước khi về, anh Trần Mạnh dặn tôi: Đây là nhiệm vụ tuyệt mật, không nói cho người thứ hai, kể cả vợ con" - ông Bon kể.
Bình thường Boeing 707 có sức chở gần 200 người. "Tôi nghĩ phải làm sao chở được thật nhiều quân nhưng vẫn đảm bảo an toàn. Tôi đề xuất dỡ bỏ một lượng ghế trên máy bay. Tôi phải trực tiếp chỉ đạo cách tháo ghế. Chỉ tháo ở những vị trí được phép để đảm bảo độ cân bằng cho máy bay" - ông Bon nói.
Khoảng 50 ghế ở phần phía trước, khoang giữa và sau đuôi máy bay được tháo rời. Toàn bộ số ghế tháo rời được mang ra khỏi máy bay.
Những khoảng trống không có ghế được đan bởi những sợi dây. Bộ đội ngồi bệt dưới nền, đấu lưng vào nhau. Còn cột dây là để khi máy bay đi vào vùng thời tiết xấu, bị rung xóc, nghiêng ngả, bộ đội bám vào dây không bị dịch chuyển gây mất an toàn.
Nhờ sáng kiến này của phi công Huỳnh Minh Bon, mỗi chuyến chiếc Boeing 707 đã chở được 300 người của Quân đoàn 2. Phần nguy hiểm nhất là số lượng vũ khí mang lên máy bay. Đạn dược, súng ống đựng trong những thùng rất lớn. Nhân viên mặt đất phải cột dây lại cho thùng dính với ghế để không bị dịch chuyển.
"Các thùng vũ khí không để tập trung một chỗ mà rải rác khắp máy bay, hạn chế va chạm khi rung xóc vì có nguy cơ cháy nổ và thương vong rất cao" - cựu cơ trưởng chuyến bay đặc biệt cho biết.
Ông kể: "Bộ đội mang theo súng đạn, balô xếp thành từng phân đội, lên máy bay trong vài chục phút là tôi cất cánh được ngay".
Lúc đó, Boeing 707 chỉ có duy nhất một tổ bay. Và cơ trưởng luôn luôn là ông Bon. Một ngày phi công Huỳnh Minh Bon cất cánh hai chuyến từ Tân Sơn Nhất ra Hà Nội.
Thắp đèn dầu ở đường băng
Nếu như các máy bay An-12 của Liên Xô hay C-119, C-130... bay ban ngày thì Boeing 707 lại chủ yếu bay ban đêm. Sau chuyến bay ngày đầu tiên Huỳnh Minh Bon đề xuất bay đêm.
Ông giải thích: "Tôi thấy ban ngày mình bay nhiều quá, cường độ bay rất lớn. Trong khi ban đêm lại không có chuyến nào. Nếu tận dụng khoảng trống ban đêm để chuyển quân thì sẽ nhanh hơn nhưng cái khó là sân bay của ta không sẵn sàng để bay đêm vì đường băng ở Tân Sơn Nhất và Nội Bài lúc đó không có đèn chạy dọc đường băng như bây giờ.
Tôi đề nghị đốt đèn dầu dọc đường băng, đường lăn và bến đậu nhưng đèn phải đảm bảo được độ sáng. Đèn không to quá cũng không nhỏ quá. Kiểu đèn tôi đề xuất phải chứa được 3 lít dầu chứ không cháy nhanh, mau hết dầu. Mà loại đèn đó thì không sản xuất sẵn, phải làm riêng.
Chỉ trong thời gian rất ngắn, các anh ấy đã đáp ứng được loại đèn dầu như yêu cầu. Khi nào thấy còn 15 phút nữa cất cánh, tôi báo "tôi sắp cất cánh" thì ở dưới đường băng mấy ảnh mới thắp đèn dầu.
Đèn để hạ cánh thì khác một chút. Lúc đó có một số xe tải của Liên Xô đèn rất sáng. Tôi đề nghị cần 10 xe tải Liên Xô. Khi chuẩn bị hạ cánh, ôtô phải bật đèn ngay đầu đường băng".
Chuyến bay đêm đầu tiên của Boeing 707 cất cánh lúc 9h tối. Phi hành đoàn có 1-2 lái phụ đi cùng, trong đó có một người là phi công quân sự hàm đại tá.
Lúc đó Boeing 707 chỉ hạ cánh ở sân bay Nội Bài vì có đường băng dài hơn 3.000m. Sân bay Gia Lâm quá nhỏ, đường băng không đủ dài để Boeing cất hạ cánh.
Ông Bon nhớ lại: "Chuyến bay đêm đầu tiên mọi người rất lo lắng, nhất là anh Trần Mạnh. Anh ấy nói: Tôi ủng hộ anh bay đêm nhưng nếu anh bay không thành công tôi sẽ gặp khó khăn lớn".
Trên thực tế, một số cựu phi công quân sự tham gia bay chở quân thời điểm cuối tháng 2, đầu tháng 3-1979 cho biết lúc đó mới tiếp thu máy bay nên trình độ của phi công chưa thể bay đêm.
Chuyến bay đêm đầu tiên của Boeing 707 hạ cánh thành công ở sân bay Nội Bài, xóa tan những lo lắng và hoài nghi của nhiều người về khả năng của phi công Huỳnh Minh Bon.
"Tôi bay nhanh lắm. Bay liên tục chỉ gần một tuần là xong nhiệm vụ. Lúc đó chuyển quân gấp mà. Tôi nói bay được là bay, dù mệt cũng bay" - ông Bon kể.
Lái máy bay từ thời Pháp và tới năm 1975 ông Bon có 25 năm kinh nghiệm lái máy bay dân dụng. Khi đất nước thống nhất, ông được mời tiếp tục làm việc, vừa bay vừa đào tạo phi công cho cách mạng.
Ông Bon kể: "Ngày 30-4-1975, tôi đang lái Boeing 707 chở khách chặng Sài Gòn - Hong Kong - Tokyo. Lúc dừng ở Hong Kong thì nghe tin Sài Gòn giải phóng. Lúc đó có nhiều hãng nước ngoài mời tôi ở lại bay cho họ nhưng tôi từ chối. Tôi muốn về nước. Gia đình, vợ con tôi ở Việt Nam. Đó là quê hương tôi. Tôi không đi vì tôi yêu Việt Nam".
Bộ đội xếp hàng chờ lên máy bay dân dụng ra Bắc chi viện cho chiến trường biên giới năm 1979 - Ảnh tư liệu
Ngoài Boeing 707, một số máy bay dân dụng khác cũng được huy động cho cuộc chuyển quân khẩn cấp bằng đường hàng không. Ông Huỳnh Minh Phương, 70 tuổi, hiện sống ở Hà Nội, là người đã lái máy bay TU-134 chở bộ đội từ sân bay Phnom Penh về sân bay Tân Sơn Nhất. TU-134 cũng được tháo ghế để có thể chở 100 quân thay vì 80 người như bình thường.
(Theo Tuổi Trẻ)
Cuộc chuyển quân thần tốc tháng 2/1979 Kỳ 1: Những chuyến không vận từ Nam ra Bắc Trong tháng 2/1979, Trung Quốc đưa quân tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam, một chiến dịch chuyển quân thần tốc với quy mô lớn chưa từng có từ Nam ra Bắc đã được triển khai. Các máy bay vận tải của trung đoàn 918 và máy bay chở khách của trung đoàn 919 đã thực hiện hàng trăm...