Chấm dứt loạn thu phí môi giới
Doanh nghiệp xuất khẩu lao động không được thu thù lao môi giới và tiền dịch vụ từ người lao động cao hơn mức trần quy định
Chủ trương của Chính phủ Việt Nam là không đưa người lao động (NLĐ) đi làm việc ở nước ngoài bằng mọi giá mà phải bảo đảm hỗ trợ, tạo điều kiện và bảo vệ để họ ra nước ngoài làm việc. Điều đó được thể hiện cụ thể trong Thông tư số 21/2021 quy định chi tiết một số điều của Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có hiệu lực từ ngày 1-2-2022, vừa được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) ban hành.
Nhiều ngành, nghề có mức trần thù lao bằng 0
Thông tư ghi rõ, kể từ ngày 1-2, doanh nghiệp (DN) xuất khẩu lao động (XKLĐ) không được thu thù lao môi giới quá mức trần cho phép. Mức trần thù lao theo hợp đồng môi giới theo thỏa thuận giữa DN dịch vụ với tổ chức, cá nhân trung gian nhưng không được vượt quá các mức quy định trong thông tư.
Thực tập sinh Việt Nam vẫn xuất cảnh sang Nhật Bản ngay cả trong mùa dịch
Theo đó, với một số thị trường, ngành, nghề, công việc cụ thể như: thuyền viên tàu cá xa bờ, tàu vận tải (Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc); lao động giúp việc gia đình (Malaysia, Brunei, các nước Tây Á), mọi ngành nghề (Thái Lan) có mức trần thù lao theo hợp đồng môi giới được quy định là 0 đồng. Với các ngành nghề thực tập sinh (TTS) kỹ năng số 3 và lao động kỹ năng đặc định tại Nhật Bản cũng có mức trần là 0 đồng. Một số ngành nghề, thị trường có mức trần thù lao môi giới giao động từ 0,4 đến 2 tháng lương mà NLĐ ký với chủ sử dụng lao động.
Cụ thể, với thị trường Nhật Bản, lao động kỹ thuật cao, lao động xây dựng đóng tàu theo chế độ hoạt động đặc định thì mức trần tiền dịch vụ thu từ NLĐ là 0,7 tháng tiền lương với hợp đồng 12 tháng và tối đa không quá 2 tháng tiền lương với hợp đồng làm việc từ 36 tháng trở lên. Với thị trường Đài Loan (Trung Quốc), mức trần tiền dịch vụ thu từ NLĐ với ngành hộ lý và y tá bệnh viện, trung tâm dưỡng lão là 0,7 tháng tiền lương với hợp đồng 12 tháng và tối đa không quá 2 tháng tiền lương với hợp đồng từ 36 tháng trở lên. Đối với ngành nghề chăm sóc người bệnh tại gia đình, giúp việc gia đình, nông nghiệp, thuyền viên là 0,4 tháng tiền lương với hợp đồng 12 tháng và tối đa không quá 1 tháng tiền lương với hợp đồng từ 36 tháng trở lên. Với thị trường Hàn Quốc, mức trần tiền dịch vụ thu từ NLĐ với thuyền viên tàu cá gần bờ là 0,7 tháng tiền lương với hợp đồng 12 tháng và tối đa không quá 2 tháng tiền lương với hợp đồng từ 36 tháng trở lên.
Video đang HOT
Như vậy, với quy định chặt chẽ, chi tiết như trên, Thông tư mới của Bộ LĐ-TB-XH đã đặt dấu chấm hết cho tình trạng loạn thu phí môi giới, phí dịch vụ suốt một thời gian dài của các DN dịch vụ phái cử NLĐ. Thông tin này lập tức được NLĐ, người thân của họ phấn khởi khi Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng dần đi vào cuộc sống, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho NLĐ, giúp thị trường XKLĐ dần đi vào quy củ, minh bạch và bền vững.
Rộng cửa cho người lao động
Anh Đinh Xuân Chiến (28 tuổi, quê Quảng Bình), hiện là thuyền viên đánh cá tại Hàn Quốc, cho biết năm 2018, gia đình anh phải gom góp, vay mượn mới đủ 230 triệu đồng để được sang Hàn Quốc làm việc. “Gần như năm đầu tiên làm được bao nhiêu tôi đều gửi về cho ba mẹ trả nợ dần. Giờ thì trả gần xong nhưng gánh nặng tài chính đó làm cho tôi và những đồng nghiệp người Việt tại đây phải làm ngày làm đêm không dám nghỉ để sớm có tiền trả nợ. Nếu được quy định mức trần thù lao và phí sớm thì chúng tôi không phải vay nợ vậy” – anh Chiến bày tỏ.
Chị Nguyễn Thị Phúc (26 tuổi, quê Long An) cũng bức xúc với mức phí chị phải bỏ ra để sang Nhật Bản làm TTS. Chị nói: “Tôi và các bạn trong nhóm đi Nhật từ giữa năm 2020 đã phải chi gần 180 triệu đồng trong khi nhiều người chỉ bỏ ra hơn 100, thậm chí có 90 triệu đồng vẫn sang đến Nhật theo hợp đồng TTS 3 năm như chúng tôi. Việc chúng tôi thiếu thông tin nên bị thu mức phí cao là một chuyện nhưng nếu có quy định rõ ràng, cụ thể như đợt này thì chúng tôi đâu có mất nhiều tiền như thế”.
Theo ông Huỳnh Ngọc Thông, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nhân lực Quốc tế Sovilaco (TP HCM), tiền dịch vụ là khoản thu của DN dịch vụ nhận được từ nước tiếp nhận lao động và từ NLĐ để bù đắp chi phí, tìm kiếm, phát triển thị trường, đàm phán, ký kết hợp đồng cung ứng lao động, quản lý NLĐ trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Thông tư lần này quy định rõ, cụ thể và chi tiết như vậy là bước tiến quan trọng để minh bạch hóa thị trường XKLĐ, tránh lạm thu số tiền quá lớn, vượt ngoài khả năng của NLĐ.
Theo ông Thông, cùng với quy định các DN hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải thực hiện ký quỹ 2 tỉ đồng, quy định chi tiết mức trần thù lao môi giới, mức trần phí dịch vụ sẽ là những công cụ bảo vệ NLĐ, giúp được nhiều NLĐ có hoàn cảnh khó khăn có mong muốn ra nước ngoài làm việc để thoát nghèo. “Giờ thì NLĐ có thể yên tâm ra nước ngoài làm việc khi các khoản thu đã được quy định rõ ràng. Với mức mà Bộ LĐ-TB-XH đưa ra tôi nghĩ sẽ mở rộng cánh cửa ra nước ngoài làm việc của nhiều NLĐ và giúp thị trường XKLĐ bức phá trong thời gian tới” – ông Thông nhìn nhận.
Giá tiêu hôm nay 7/1: Tổng quan thị trường hồ tiêu 2021, Mỹ nhập khẩu nhiều nhất, Olam là doanh nghiệp đứng đầu
Giá tiêu hôm nay 7/1 trong khoảng 78.500 - 81.000 đồng/kg. Năm 2021 Việt Nam xuất khẩu được 263.692 tấn hồ tiêu các loại, bao gồm 231.676 tấn tiêu đen và 32.016 tấn tiêu trắng.
Tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 80.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Gia Lai, giá tiêu hôm nay ở mức 79.000 đồng/kg.
Trong khi đó tại Đồng Nai, giá tiêu hôm nay ở mức 78.500 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg.
Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giá tiêu hôm nay ở mức 81.000 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg.
Còn tại tỉnh Bình Phước giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 80.000 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg.
Sáng nay giá tiêu trong nước giảm 500 đồng/kg tại khu vực Đông Nam Bộ, giữ nguyên ở các tỉnh Tây Nguyên. Đây là ngày suy giảm thứ 2 của năm 2022. Trong khi đó giá tiêu đen và tiêu trắng xuất khẩu của Việt Nam vẫn được giữ ổn định từ sau lễ Giáng sinh tới nay.
Thống kê sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA), trong năm 2021 Việt Nam xuất khẩu được 263.692 tấn hồ tiêu các loại, bao gồm 231.676 tấn tiêu đen và 32.016 tấn tiêu trắng. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 948,7 triệu USD, tiêu đen đạt 792,1 triệu USD, tiêu trắng đạt 156,6 triệu USD. So với năm 2020, lượng xuất khẩu giảm 8,1% tuy nhiên kim ngạch tăng 43,6%.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam đã nhập khẩu 25.359 tấn hồ tiêu các loại, trong đó tiêu đen đạt 18.677 tấn, tiêu trắng đạt 6.682 tấn. So với năm 2020, lượng nhập khẩu giảm 36,4%, kim ngạch giảm 1,8%.
Olam trở thành doanh nghiệp đứng đầu xuất khẩu hồ tiêu trong năm 2021 với lượng xuất khẩu đạt 26.887 tấn, tăng 7,4% so với năm trước. Đứng vị trí thứ 2 là Trân Châu với lượng xuất khẩu đạt 23.803 tấn, giảm 9%. Tiếp theo là các doanh nghiệp: Nedspice Việt Nam: 20.199 tấn, tăng 11,6%; Phúc Sinh: 16.675 tấn, giảm 21,1%; Haprosimex JSC: 12.172 tấn, giảm 8,8%; Liên Thành: 10.337 tấn, tăng 19,6%,... Một số doanh nghiệp khác có lượng xuất khẩu tăng như: Harris Freeman, Simexco, Intimex Group, Phúc Thịnh, Pitco,... Một số doanh nghiệp xuất khẩu giảm: Gia vị Sơn Hà, DK, Sinh Lộc Phát, Hanfimex,... Các doanh nghiệp xuất khẩu tiêu trắng hàng đầu: Olam Việt Nam, Nedspice Việt Nam, Liên Thành, Pearl Group, Phúc Sinh, Hoàng Gia Luân. Khối các doanh nghiệp trong VPA xuất khẩu chiếm 75,4%, so với năm 2020 tăng 2,9%. Khối các doanh nghiệp FDI xuất khẩu chiếm 29,1% tăng 4,6%.
Olam cũng là doanh nghiệp nhập khẩu lớn nhất chiếm 46% đạt 11.663 tấn và so với 2020 giảm 7,8%. Các doanh nghiệp FDI nhập khẩu đạt 19.155 tấn chiếm 75,5% tổng lượng nhập khẩu, khối các doanh nghiệp trong VPA nhập khẩu chiếm 82,8%, tăng 0,7% so với năm ngoái. 3 quốc gia cung cấp hồ tiêu chủ yếu cho Việt Nam là Indonesia, Cambodia và Brazil chiếm 86%, tuy nhiên so với năm 2020 lượng nhập khẩu từ Indonesia giảm 51,5% và từ Brazil giảm 42% trong khi nhập khẩu từ Cambodia tăng 123%.
VPA thông tin thêm, châu Á là khu vực chiếm tỷ trọng nhập khẩu lớn nhất hồ tiêu từ Việt Nam chiếm 45,8% với tổng lượng nhập khẩu đạt 120.801 tấn, so với năm ngoái lượng nhập khẩu giảm 17%. Trong đó lượng nhập khẩu của Trung Quốc đạt 38.259 tấn, giảm 31,7%. Trong khi đó Các tiểu Vương quốc Ả Rập nhập khẩu tăng 20,3% đạt 15.686 tấn. Nhập khẩu của Ấn Độ giảm nhẹ 0,3% đạt 12.557 tấn. Một số nước có lượng nhập khẩu tăng như Hàn Quốc, Iran,... Nhập khẩu giảm ở Philippine, Thái Lan, Saudi Arab.
Nhập khẩu của châu Mỹ chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 chiếm 24,9% đạt 65.693 tấn, tăng 8,3% so với năm trước. Trong đó Mỹ tiếp tục là quốc gia nhập khẩu hồ tiêu nhiều nhất từ Việt Nam đạt 59.778 tấn, tăng 8,7%. Nhập khẩu cũng tăng 14,2% ở Canada, tăng 332,1% ở El Salvador và tăng 63,5% ở Guatemala. Mexico nhập khẩu giảm 22%.
Ở khu vực châu Âu, tỷ trọng nhập khẩu chiếm 23,7% đạt 62.549 tấn và tăng 5,1%. Đứng đầu nhập khẩu là Đức đạt 11.783 tấn, tăng 8,3%; Hà Lan đạt 10.140 tấn tăng 26,2%; Anh: 6.037 tấn, tăng 9,2%; Pháp 5.606 tấn, tăng 37,9%. Nhập khẩu giảm ở Nga, Ireland, Ba Lan, Israrel, Ukraina...
Lượng nhập khẩu của khu châu Phi giảm mạnh 30,6% đạt 14.649 tấn với hầu hết các quốc gia đều có lượng nhập khẩu giảm như Ai Cập: 6.107 tấn, giảm 33,2%; Nam Phi: 3.028 tấn, giảm 9,2%; Senegal: 1.344 tấn, giảm 46%; Gambia: 896 tấn, giảm 24,3%.
Các thị trường nhập khẩu tiêu trắng hàng đầu: Đức, Mỹ, Hà Lan, Trung Quốc, Thái Lan, Anh, Pakistan, Ấn Độ...
3 tỉnh hợp lực xuất khẩu thanh long sang Trung Quốc bằng đường biển Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam đề nghị, các tỉnh Bình Thuận, Tiền Giang, Long An hợp lực để xúc tiến xuất khẩu thanh long sang Trung Quốc qua đường biển. Sáng 6/1, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) và Tổ điều hành Diễn đàn kết nối nông sản 970, Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp, Cục...