Cha ông ta chống gian lận thi cử bằng cách nào?
Gần một nghìn năm khoa bảng nước nhà, các triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp khác nhau để chống gian lận thi cử.
Khoa cử là con đường rất quan trọng để các triều đại phong kiến tuyển chọn người thực tài phục vụ đất nước. Đó cũng là con đường gần như duy nhất để sinh đồ thỏa mãn ước nguyện giấc mơ quan trường.
Để tuyển chọn đúng nhân tài, người Việt xưa cố gắng tổ chức những kỳ thi chặt chẽ, hạn chế sai sót, gian lận.
Những quy định nghiêm ngặt
Dưới thời phong kiến, khoa cử có ba kỳ thi quan trọng nhất là thi Hương, Hội, Đình. Tuy nhiên, nho sinh muốn được dự kỳ thi đầu tiên (Hương), phải trải qua kỳ thi sát hạch trước đó. Từ thời Thái tổ Lê Lợi, lệ thi sát hạch đã được Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép.
Ngay từ năm 1462, vua Lê Thánh Tông đề ra lệ “Bảo kết hương thí”. Theo đó, khoảng tháng 8 trước kỳ thi năm sau, các sĩ tử ứng thí phải đến nhà giám hay đạo sở tại, khai rõ lý lịch, đợi thi Hương. Nếu thi đỗ, danh sách tiếp tục được gửi đến Viện Lễ nghi, để trung tuần tháng giêng năm sau thi Hội.
Quy định này tiếp tục được duy trì đến thời Nguyễn. Theo sách Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, trong khoa thi Hương đầu tiên của triều Nguyễn tổ chức năm 1807, vua Gia Long định lệ: “Trước kỳ thi, lý trưởng sở tại phải ghi tên học trò đi thi vào sổ. Những người bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa, phạm án cướp hay phản nghịch đều không được đi thi”.
Những quy định này tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện dưới thời các vị vua triều Nguyễn tiếp theo.
Khi thi, sĩ tử luôn được giám sát chặt chẽ bởi các “khảo quan”. Ảnh tái hiện cảnh sĩ tử đi thi ngày xưa. Nguồn: Quân Đội Nhân Dân.
Giám khảo là những người có vai trò quyết định sự thành bại của kỳ thi nên được tuyển chọn rất nghiêm ngặt. Giám khảo thường được chia làm nội trường và ngoại trường.
Nội trường gồm có 4 đến 16 quan sơ khảo, 4 đến 6 người phúc khảo, cùng 2 giám khảo. Ngoại trường gồm một quan chủ khảo (Đề điệu), một phó chủ khảo và hai phân khảo. Tất cả người này đều có phẩm hàm từ tam phẩm tới ngũ phẩm.
Giám sát cả quan trường lẫn thí sinh dự thi có ban giám sát trong trường thi và ngoài trường thi. Tất cả đều được tổ chức quy củ, chặt chẽ.
Ngoài ra, hai quan đề tuyến nội và đề tuyến ngoại chuyên phụ trách việc rọc phách, ráp phách, kê khai danh sách những người thi, người đỗ, yết bảng… Giúp việc cho trường thi còn có hàng chục thư ký chuyên lo ghi chép, yết bảng.
Để ngăn ngừa những chuyện tư túi, gian lận, ngay từ năm 1448, Đề điệu Quốc Tử Giám Lê Khắc Phục đã xin triều đình bắt các khảo quan phải uống máu ăn thề trước mỗi kỳ thi.
Quan sơ khảo, phúc khảo kén người địa phương, nhưng người ở tỉnh này phải đổi đi chấm thi ở tỉnh khác. Người có con em đi thi cùng tỉnh thì phải làm giấy “hồi tị” – xin cáo không đi chấm trường, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Các Lại phòng, Thể sát do quan địa phương cử, cũng chọn những người không đỗ đạt nhưng thanh liêm.
Những người liên quan đến thi cử đều không được ra khỏi trường thi cho đến khi kết thúc.
Trường thi quy củ, chấm thi chặt chẽ
Để ngăn ngừa nguy cơ giám khảo sửa bài cho học trò, các quan không được mang giấy tờ có chữ và mực đen vào trường thi. Nội, ngoại trường nếu không có việc quan trọng không được gặp nhau.
Trường thi chia làm hai phần, phần ngoài dành cho thí sinh, phần trong cho quan trường. Phần ngoài lại chia ra làm 4 hay 8 vi (nơi dành cho sĩ tử cắm lều). Chỗ quan trường họp để ra đầu bài và là chỗ thí sinh đến xin dấu Nhật trung và nộp quyển là nhà Thập đạo.
Phần trong cũng chia ra làm hai. Trong cùng là nội trường, nơi dành cho quan sơ khảo, phúc khảo và giám khảo làm việc. Ngoại trường tiếp giáp khu thí sinh là chỗ ở và làm việc của các ông chánh, phó chủ khảo và phân khảo. Giữa nội và ngoại trường là nơi dành cho quan đề tuyển, những khảo quan khác không được đến nơi này.
Mỗi khi có chuyện bất đồng ý kiến, các quan nội trường thảo luận tại Giám viện xây chính giữa nội trường, các quan ngoại trường thảo luận tại Thí viện, chính giữa ngoại trường.
Quyển thi được làm cùng một quy cách, đóng dấu ấn triện của quan Tổng đốc rồi được gửi vào trường. Quan đề tuyển đóng dấu tên vào trang đầu và dấu Giáp phùng vào giữa trang 2 và 3, sau đó trộn đều, chia làm 4 hay 8 phần cho 4 hay 8 vi. Lại phòng ghi tên thí sinh mỗi vi vào sổ rồi làm bảng yết danh ở cửa vi.
Bia tiến sĩ, nơi khắc tên những người đỗ đại khoa được vua Lê Thánh Tông cho lập năm 1484. Ảnh: T.T.
Để tránh trao đổi bài, triều đình quy định người cùng một nhà không được xếp cùng một vi. Quyển được giao cho ngoại trường để phát cho học trò hôm thi.
Thí sinh tuyệt đối không được mang tài liệu vào trường thi. Ngay từ nửa đêm hôm trước ngày thi chính thức, các quan trường thi mặc áo đại triều ngồi lên ghế tréo trước cổng để chứng kiến lễ điểm danh, xem lính Thể sát khám xét cẩn thận, không cho thí sinh mang mang tài liệu vào trường thi.
Trước hôm thi một ngày, treo bảng yết danh và trường quy từ sáng sớm ở mỗi cửa vi. Nho sinh làm đến giữa trưa phải đến nhà Thập đạo xin đóng dấu Nhật trung để tránh đổi quyển thi khác. Bài làm xong cũng nộp ở nhà Thập đạo, có lính đóng dấu vào cuối quyển chứng nhận trước mặt Đề tuyển, rồi bỏ vào hòm đựng quyển. Những quyển nộp sau khi khoá hòm gọi là “ngoại hàm”.
Quyển thi được giao cho đề tuyển rọc phách rồi đưa vào nội trường. Để tránh việc nhận ra nét chữ của thí sinh, sau khi thu quyển, Đằng lục chép lại bài của thí sinh bằng son để giám khảo chấm. Chép xong, đọc đối chiếu với bản mực đen rồi tất cả người sao chép cùng ký tên, ghi chức tước vào trang đầu cả bản chính lẫn bản sao trước khi giao trả quan đề điệu.
Quan sơ khảo chấm trước tiên bằng son ta (mầu gạch), xong đến phúc khảo chấm lại bằng mực xanh, cuối cùng giám khảo duyệt lại lần nữa bằng mầu hồng đơn. Những người chấm thi phải đề rõ họ tên, chức tước, số điểm rồi ký tên lên mặt quyển.
Nội trường chấm xong chuyển qua đề tuyển đưa ra ngoại trường. Các ông chánh, phó chủ khảo chấm lại những bài được nội trường lấy đỗ. Phân khảo đọc những quyển bị đánh hỏng xem ai đáng vớt thì trình lên chủ khảo. Ngoại trường chấm bằng son tầu mầu đỏ tươi. Khi chấm xong, xếp đặt cao thấp rồi mới gửi cho đề tuyển ráp phách, lập danh sách những người trúng cử, đem yết.
Sau mỗi kỳ thi, chủ khảo và giám sát mỗi người phải làm một bản phúc trình gửi về kinh, nếu không sẽ bị phạt. Tất cả quyển thi đều được gửi về kinh duyệt lại. Triều đình căn cứ quyền thi, xét lại lần nữa để định thứ bậc. Có thể lấy thêm người người trúng cách, đánh hỏng người đã đỗ, thay đổi thứ bậc sau khi kiểm duyệt.
Kỳ thi ‘Minh kinh bác học’ đầu tiên của nước Đại Việt Năm 1075, vua Lý Nhân Tông lần đầy tiên cho tuyển chọn quan lại thông qua kỳ thi nhằm tìm ra người có tài phục vụ đất nước.
Kỳ thi nho học đầu tiên của nước ta được tổ chức vào năm 1075 (dưới thời vua Lý Nhân Tông). Kỳ thi cuối cùng được tổ chức vào năm 1919 (thời vua Khải Định). Trong gần 1.000 năm đó, các triều đại phong kiến Việt Nam tổ chức được tất cả 183 (có tài liệu ghi 184) kỳ thi, có 2.898 người đã được lấy đỗ tiến sĩ.
Từng có nhiều đại quan trong sử Việt bị kết án do gian lận khoa cử. Nặng nhất là trường hợp Phó chủ khảo trường thi Thanh Hóa Ngô Sách Tuân bị kết án tử hình do gian lận khoa cử năm 1694. Một số trường hợp còn lại bị kết nhiều bản án nặng nhẹ khác nhau.
Theo Zing
Gông cổ một tháng, đánh 100 roi nếu mang tài liệu vào phòng thi
Dưới thời phong kiến, những quy chế thi cử thường hết sức ngặt nghèo. Thí sinh có thể bị gông cổ, đánh trượng, bỏ tù nếu phạm trường quy.
Ảnh minh họa
Khoa cử là một trong những hình thức cơ bản để tuyển dụng nhân tài, phục vụ đất nước ngày xưa.
Ở nước ta nền khoa cử ra đời tương đối sớm. Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, các triều đại phong kiến Việt Nam như Ngô, Đinh, Tiền Lê đã ngay lập tức bắt tay vào việc xây dựng và củng cố chính quyền.
Đến thời Lý (1009-1225) bộ máy nhà nước phong kiến về căn bản đã được hoàn thiện. Để có thể tuyển dụng nhân tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhà Lý bắt đầu đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền giáo dục nước nhà.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1070, vua Lý Nhân Tông cho thành lập Văn Miếu, một năm sau cho thành lập Quốc Tử Giám (trường học đầu tiên của quốc gia).
Tiếp theo đó, năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho tổ chức kỳ thi tuyển chọn người tài đầu tiên, được gọi là kỳ thi Minh kinh bác học. Kể từ đây, nền khoa cử Việt Nam chính thức ra đời.
Sau thời Lý, các triều đại phong kiến tiếp tục hoàn thiện nền giáo dục nước nhà. Phần lớn các triều đại đều có một số cải cách về nội dung giáo dục và thi cử để phù hợp hơn.
Tuy nhiên, điểm chung là: dù dưới bất cứ triều đại nào, thì việc giáo dục và thi cử dưới thời phong kiến vẫn luôn tồn tại những quy định hết sức ngặt nghèo, bắt buộc học sinh phải vượt qua.
Theo sách Đại Nam Hội điển sự lệ, triều Nguyễn quy định, thí sinh không được mang tài liệu vào trường thi, không được nói chuyện ồn ào, lộn xộn, phải đóng dấu "nhật trung" (dấu xác định bài thi được làm tại trường thi), cấm ngồi không đúng chỗ quy định, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên, cấm kê khai gian lận tên tuổi, cấm nộp bài trễ hạn. Nếu vi phạm sẽ bị phạt rất nặng.
Ngoài ra, hình phạt đối với người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị gông (cùm) một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì truy tội cả thí sinh lẫn các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương có thí sinh vi phạm.
Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (phải biết tránh chữ húy). Chữ "húy" ở đây chính là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua, tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua, con vua, vợ vua...nếu bài phạm húy, chắc chắn sẽ bị đánh hỏng.
Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang nghĩa là bài thi thiếu phần tao nhã, dùng những từ thô tục về ngữ nghĩa và âm luật, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ), nếu không sẽ mắc lỗi khiếm đài.
Bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi, phạm luật. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã xóa, bỏ sót, sửa chữa.
Trước thời gian thi bốn tháng, những thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại địa phương để xem xét tư cách đạo đức, lý lịch.
Những người đang chịu tang cha hoặc mẹ, đang chịu tang ông bà nội mà đương sự là người phải lo việc thờ phụng không được tham gia kỳ thi. Những người bất hiếu, không hòa thuận với anh em, tàn bạo... cũng không được thi. Những người thân thuộc với những người phạm tội đã bị chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù những người này đã được tha về)... cũng không thi.
Những người chức tước cao nhất, không kể đã bị xét xử hay chưa, dù đã chết hay đã ra đầu thú được khoan dung, thì từ con cho đến cháu, chắt cùng những người chịu tang từ chín tháng trở lên đều không được dự thi.
Nếu là kẻ tòng phạm theo giặc nhưng không có chức tước, hoặc nhỏ thì con cháu không được đi thi. Nếu đã ra đầu thú, lập công được giảm án thì cháu được đi thi. Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc ức hiếp phải theo chẳng có chức tước gì thì con không được.
Nguyễn Thanh Điệp
Theo vietnamnet.vn
Quy trình chặt chẽ, điểm thi Hà Giang bất thường do đâu? Quy trình tổ chức thi, chấm thi THPT quốc gia năm nay của Bộ GD-ĐT được đánh giá rất chặt chẽ, vậy vụ điểm thi bất thường ở Hà Giang là do đâu? Thí sinh tham dự kỳ thi THPT quốc gia 2018 tại Nghệ An - Ảnh: DOÃN HOÀ GS Đỗ Đức Thái - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, đặt nghi...