Cảnh báo biến thể Lambda có nguy cơ kháng vắc xin Covid-19
Các nhà khoa học Nhật Bản phát đi cảnh báo về Lambda, cho biết các nghiên cứu của họ chỉ ra rằng biến chủng này dễ lây lan hơn so với chủng ban đầu và có khả năng kháng vắc xin Covid-19.
Nhân viên y tế tiêm chủng cho người dân ở Peru (Ảnh: Reuters).
Theo Reuters , nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản chỉ ra rằng biến chủng Lambda – lần đầu bị phát hiện ở Peru và đang bùng phát ở Nam Mỹ – dường như dễ lây lan và có khả năng kháng vắc xin hơn nếu so với chủng virus ban đầu phát hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc hồi cuối năm 2019.
Báo cáo nghiên cứu được đăng tải trên trang bioRxiv trước khi bình duyệt khoa học cho thấy, các nhà khoa học trên tìm ra 3 đột biến ở phần gai protein của Lambda, gồm RSYLTPGD246-253N, 260 L452Q và F490S – có thể giúp chủng này chống lại sự trung hòa bởi các kháng thể do vắc xin sinh ra.
Ngoài ra, 2 đột biến khác là T76I và L452Q được xem có khả năng khiến Lambda dễ lây lan hơn so với chủng ban đầu. Hiện chưa có bằng chứng cụ thể về việc liệu Lambda có nguy hiểm hơn biến chủng Delta hay không, tuy nhiên nhà nghiên cứu Kei Sato từ đại học Tokyo cảnh báo rằng, Lambda “có thể trở thành mối đe dọa tiềm tàng với xã hội loài người”.
Ngoài ra, các nhà khoa học cũng cảnh báo việc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) mới đang liệt kê Lambda là “biến chủng đáng quan tâm” thay vì “biến chủng đáng lo ngại” có thể khiến mọi người không nhận ra được mối đe dọa thực tế mà biến chủng này có thể mang lại.
Newsweek dẫn thông báo của trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ cho biết, Lambda đã xuất hiện ở Mỹ nhưng với tỷ lệ không cao, khoảng 0.17%.
“Hiện có hơn 1.300 ca bệnh mắc chủng Lambda tính tới ngày 4/8 và chủng Lambda đã xuất hiện ở 44 bang”, CDC cho biết.
Tổ chức Nhóm liên ngành SARS-CoV-2 (SIG), CDC hay Viện Y tế Quốc gia Mỹ và các cơ quan liên bang khác, chưa liệt kê Lambda là biến chủng cần quan tâm hay biến chủng đáng lo ngại vào lúc này nhưng SIG cho biết, họ và CDC sẽ “tiếp tục theo dõi tích cực biến chủng này”.
Đội tàu khổng lồ Trung Quốc thống trị ngư trường màu mỡ nhất thế giới
Đội tàu cá lớn nhất thế giới của Trung Quốc đã khai thác ồ ạt các loại sinh vật biển ở Thái Bình Dương, tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng cho các quốc gia trong khu vực.
Video đang HOT
Những người đàn ông phân loại cá đánh bắt được tại Tokelau (Ảnh: Guardian).
Từ rất lâu trước khi các tàu đánh cá vỏ thép nước ngoài đến Nam Thái Bình Dương, người dân ở khu vực này đã có hệ thống riêng để chia sẻ sản lượng hải sản đánh bắt được.
Tại vùng lãnh thổ Tokelau của New Zealand, 1.400 cư dân sống trên 3 đảo tại đây đã thực hiện theo một hệ thống có tên gọi inati , nhằm đảm bảo mọi hộ gia đình đều nhận được cá sau các chuyến đánh bắt.
Mỗi tháng vài lần, tất cả đàn ông ở Tokelau đều ra khơi đánh bắt. Họ khởi hành vào đêm muộn và trở về sau 12 giờ lênh đênh trên biển. Lượng cá đánh bắt được sẽ phân loại thành các loại với kích cỡ khác nhau. Gia đình đông người hơn nhận được số cá nhiều hơn.
Trên khắp Thái Bình Dương, các hoạt động đánh bắt truyền thống như vậy diễn ra song song với các hoạt động khai thác thương mại quy mô lớn.
Khu vực Thái Bình Dương đã xuất khẩu 530.000 tấn sản phẩm hải sản trong năm 2019, thu về 1,2 tỷ USD. Các nhà xuất khẩu lớn nhất là Papua New Guinea (470 triệu USD), Fiji (182 triệu USD), Micronesia (130 triệu USD), Vanuatu (108 triệu USD) và Quần đảo Solomon (101 triệu USD).
Các nước nhập khẩu cá lớn nhất từ Thái Bình Dương trong năm 2019 là Thái Lan (300 triệu USD), Philippines (195 triệu USD), Nhật Bản (130 triệu USD), Trung Quốc (100 triệu USD) và Mỹ (100 triệu USD).
Ngành công nghiệp đánh bắt cá là câu chuyện thành công của khu vực Thái Bình Dương. Tuy nhiên Thái Bình Dương - ngư trường màu mỡ nhất thế giới, nơi cung cấp hơn một nửa lượng cá ngừ của thế giới - cũng trở thành nạn nhân của nạn đánh bắt bất hợp pháp.
Các quốc gia nhỏ ở Thái Bình Dương, nơi xảy ra các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, đã bị mất lợi nhuận, cạn kiệt nguồn cá dự trữ và không có khả năng quản lý hiệu quả vùng biển của họ. Các nước này cũng thường đối mặt với lệnh trừng phạt từ các nước nhập khẩu vì không đảm bảo nguồn gốc xuất xứ hợp pháp của sản phẩm.
17 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực Thái Bình Dương trực tiếp kiểm soát lãnh hải của mình. Việc đánh bắt cá bên ngoài lãnh hải, trong các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) lớn hơn của các quốc gia, do tổ chức liên chính phủ có tên gọi Cơ quan Diễn đàn Thủy sản (FFA) quản lý.
Các vùng EEZ tại Thái Bình Dương mang lại lượng cá ngừ trị giá khoảng 26 tỷ USD, nhưng các đảo trong khu vực này chỉ kiếm được khoảng 10% giá trị đó. Chỉ một số ít quốc gia Thái Bình Dương có khả năng chế biến thủy sản đánh bắt được trong vùng biển của họ, trong khi quá trình chế biến thường diễn ra ở Bangkok và các thành phố châu Á khác.
Các quốc gia Thái Bình Dương cũng không có nhiều tàu đánh cá và chủ yếu kiếm tiền từ việc cấp phép cho các tàu nước ngoài đánh bắt trong vùng biển của họ.
Các vùng biển ngoài vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), nơi không thuộc chủ quyền của quốc gia nào, do Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC) giám sát.
Năm 2019, tổng sản lượng khai thác cá ngừ của WCPFC đạt kỷ lục hơn 2,9 triệu tấn, chiếm 81% tổng sản lượng khai thác cá ngừ Thái Bình Dương và 55% sản lượng khai thác cá ngừ toàn cầu. Hoạt động đánh bắt ở vùng biển ngoài EEZ ở Thái Bình Dương bị chi phối bởi đội tàu thuyền từ các quốc gia đánh bắt nước sâu gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ.
Hoạt động đánh bắt quy mô công nghiệp bắt đầu ở Nam Thái Bình Dương sau chiến tranh thế giới thứ hai, do Mỹ và Nhật Bản "thống trị". Tuy nhiên trong hai thập niên qua, Trung Quốc đã triển khai hết đợt tàu cá này đến đợt tàu cá khác để tận diệt nguồn cá trong khu vực.
Đội tàu khổng lồ của Trung Quốc
Nhấn để phóng to ảnh
Một tàu cá Trung Quốc ở Thái Bình Dương (Ảnh: Reuters).
Các tàu Trung Quốc đánh bắt theo đội hình dài tới 100 km, mỗi tàu có tới 3.000 lưỡi câu. Tàu Trung Quốc sử dụng thiết bị điện tử để xác định vị trí đàn cá, sau đó sử dụng vận tốc của tàu để kéo lưới đánh bắt. Các tàu có thể đánh bắt cả những loài cá quý hiếm như cá mập, hay các loài rùa biển và chim biển.
Theo Guardian , sau khi đánh bắt cạn kiệt tại các vùng biển gần lãnh thổ, các đội tàu của Trung Quốc đang khai thác số lượng lớn cá ngừ tại ngư trường màu mỡ nhất thế giới. Kể từ năm 2012, đội tàu cá của Trung Quốc ở Thái Bình Dương đã tăng hơn 500%.
Một cuộc khảo sát các tàu thuyền hoạt động ở Thái Bình Dương vào năm 2016 cho thấy, các tàu gắn cờ Trung Quốc vượt xa tàu của mọi quốc gia khác. Trung Quốc có 290 tàu cá công nghiệp được cấp phép hoạt động trong khu vực vào thời điểm đó, chiếm hơn 1/4 tổng số tàu công nghiệp hoạt động tại khu vực, và nhiều hơn tàu của tất cả các quốc gia Thái Bình Dương cộng lại (240 tàu).
Các đội tàu cá khổng lồ của Trung Quốc thống trị các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) ở những nơi như Vanuatu và cả các vùng biển quốc tế. Ngoài cá ngừ, cá mập cũng là mục tiêu ưa thích của tàu cá Trung Quốc. Tuy nhiên, họ chỉ giữ lại vây của cá mập và vứt bỏ phần còn lại trên biển.
Đầu năm nay, Trung Quốc cho biết nước này đã cấm các đội tàu đánh bắt mực ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương trong 3 tháng để giúp phục hồi nguồn dự trữ. Thời báo Hoàn cầu , một tờ báo nhà nước của Trung Quốc, cho rằng động thái này đã nêu bật "hình ảnh của Trung Quốc như một cường quốc đánh bắt có trách nhiệm và là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự tham gia của Trung Quốc vào hoạt động quản lý hàng hải quốc tế".
Trong 10 năm qua, Trung Quốc đại lục và Hong Kong đã tìm cách chấm dứt hoạt động buôn bán vây cá mập, bằng cách cấm tiêu thụ súp vi cá mập và công khai chỉ trích hoạt động này. Tuy nhiên, số lượng cá mập đại dương vẫn sụt giảm liên tục cho thấy các biện pháp này chưa thực sự hiệu quả.
Theo thống kê của WCPFC, Trung Quốc chiếm hơn 600 tàu trong tổng số 1.300 tàu nước ngoài được cấp phép đánh bắt trong khu vực Thái Bình Dương.
"Do nguồn dự trữ cá cạn kiệt trong vùng biển nội địa và được tạo điều kiện bởi chính sách trợ cấp, các đội tàu đánh bắt xa bờ của Trung Quốc đã đi ngày càng xa và các công ty của nước này đang đóng ngày càng nhiều tàu để đáp ứng nhu cầu hải sản ngày càng tăng", Miren Gutierrez, nhà nghiên cứu tại Viện Phát triển Hải ngoại (ODI) có trụ sở tại London, viết trong một nghiên cứu về đánh bắt cá nước sâu của Trung Quốc.
Nhiều số liệu ước tính cho thấy đội tàu Trung Quốc có từ 1.600 - 3.400 tàu, nhưng nghiên cứu của ODI cho biết con số này có thể cao hơn từ 5 - 8 lần.
Cuộc nghiên cứu của Miren Gutierrez và các tác giả đã xác định, 12.490 tàu cá Trung Quốc đã hoạt động bên ngoài các vùng biển của nước này trong giai đoạn từ năm 2017 - 2018.
"Trung Quốc là một siêu cường đánh bắt. Họ có đội tàu đánh cá lớn nhất và đội tàu đánh bắt xa bờ lớn nhất trên thế giới", nghiên cứu cho biết.
Các tàu Trung Quốc đối mặt với rất nhiều cáo buộc về việc đánh bắt cá trái phép, không khai báo và không được kiểm soát (IUU). Hồi tháng 1, Viện Brookings có trụ sở tại Washington đã công bố một nghiên cứu cho biết: "Các hoạt động đánh bắt cá của Trung Quốc là một mối đe dọa về IUU nghiêm trọng và chưa từng có".
Nghiên cứu chỉ ra rằng Trung Quốc đã sử dụng đội tàu đánh cá lớn nhất thế giới để "gây ra tác động tàn phá" nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ khổng lồ của người dân.
Đầu năm ngoái, Ecuador cáo buộc ít nhất 150 tàu cá Trung Quốc đã tắt hệ thống theo dõi để chúng có thể hoạt động gần quần đảo Galapagos.
Tới tháng 4/2020, Cục Nghề cá Trung Quốc thông báo sẽ bắt đầu đưa vào danh sách đen các tàu và thuyền trưởng bị phát hiện vi phạm IUU. Bắc Kinh đã cấm một số tàu gắn cờ của mình vì vi phạm IUU ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, các nhà quan sát đã đặt nghi vấn về hiệu quả của động thái này, vì các tàu Trung Quốc bị phát hiện tiếp tục tắt thiết bị theo dõi khi hoạt động ở Thái Bình Dương.
Người dân Vũ Hán tự tin có đủ kinh nghiệm đối phó với biến chủng Delta Trong khoảng 48 giờ sau khi phát hiện 7 ca mắc COVID-19 trong cộng đồng, Vũ Hán, thành phố 11 triệu dân, đã gấp rút triển khai xét nghiệm trên toàn thành phố, dừng giảng dạy trực tiếp và giảm một nửa lượng khách tới các điểm du lịch. Nhân viên y tế xét nghiệm COVID-19 cho một người dân địa phương ở...