“Canh bạc Biển Đông” nguy hiểm của Trung Quốc
Giữa lúc Châu Á lo ngại về căng thẳng Trung-Việt liên quan đến giàn khoan 981, Trung Quốc đã có sẵn trong tay một kế hoạch lớn thâu tóm Biển Đông.
Trong 2 năm qua, Trung Quốc đã kiểm soát trên thực tế bãi cạn Scarborough, vây hãm thủy quân lục chiến Philippines ở bãi Cỏ Mây (Second Thomas Reef) và gần đây nhất, hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ 981 cách bờ biển Việt Nam có 120 hải lý.
Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan dầu 981 cách bờ biển Việt Nam có 120 hải lý.
Theo tạp chí The National Interest của Mỹ, trong khi việc triển khai các giàn khoan dầu chắc chắn là động thái gây tranh cãi nhất cho đến nay, diễn biến đáng chú ý nhất lại là việc Trung Quốc khơi luồng lạch, đắp đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông.
Phân tích hình ảnh vệ tinh, IHS Jane và IHS Maritime của Anh đã phát hiện ra hoạt động nạo vét đắp đảo có hệ thống của Trung Quốc trên khắp quần đảo Trường Sa.
Hoạt động nạo vét đắp đảo qui mô lớn nhất của Trung Quốc là ở đá Gạc Ma, một bãi đá ngầm mà Trung Quốc đánh chiếm của Việt Nam năm 1988.
Hoạt động nạo vét này không chỉ nhằm khơi luồng lạch cho tàu bè đi qua các rạn san hô, mà còn nhằm đắp đảo nhân tạo để từ đó khuếch trương sức mạnh ở phía nam Biển Đông.
Cho đến nay, hoạt động nạo vét đắp đảo qui mô lớn nhất của Trung Quốc là ở đá Gạc Ma (Johnson South Reef), một bãi đá ngầm mà Trung Quốc đánh chiếm của Việt Nam sau một trận hải chiến đẫm máu năm 1988, khiến hơn 70 binh sĩ Việt Nam tử trận. Sau trận chiến đẫm máu này, Trung Quốc đã xây dựng một công trình kiên cố ở đá Gạc Ma, thiết lập một cơ sở đồn trú và thông tin liên lạc.
Trên thực tế, Trung Quốc đang thiếu một cái gì đó mà tất cả các bên tranh chấp khác trong quần đảo Trường Sa đều có và đó là một hòn đảo có đường băng cho máy bay hạ, cất cánh. Đài Loan có đảo Ba Bình, Việt Nam có đảo Trường Sa thân, Malaysia có Sparrow Reef và Philippines có đảo Thị Tứ.
Video đang HOT
Nếu tin vào hình ảnh máy tính của Viện nghiên cứu & Thiết kế số 9 trực thuộc Tổng công ty đóng tàu nhà nước Trung Quốc (CSSC), hòn đảo mới ở đá Gạc Ma sẽ có một đường băng sân bay, các nhà chứa máy bay phản lực, một cảng biển có cầu cảng, máy phát điện bằng sức gió và nhiều nhà kính để trồng trọt.
Hình ảnh máy tính “đảo” Gạc Ma của Viện nghiên cứu & Thiết kế số 9 trực thuộc Tổng công ty đóng tàu nhà nước Trung Quốc (CSSC).
Điều này khiến người ta liên tưởng đến đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam hồi giữa những năm 1950. Trung Quốc đã phát triển đảo này thành một căn cứ không quân-hải quân và chính từ đó, Trung Quốc có thể triển khai sức mạnh tiến vào Biển Đông. Đảo này có một đường băng dài 2.700 mét (khai trương vào năm 1990) và có 4 nhà chứa máy bay dành cho chiến đấu cơ phản lực cùng với một kho lưu trữ nhiên liệu. Quân đội Trung Quốc cũng đã xây dựng 3 quân cảng ở quần đảo Hoàng Sa.
Trung Quốc xây dựng sân bay, quân cảng ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) mà Trung Quốc chiếm của Việt Nam hồi giữa những năm 1950.
“Đảo nhân tạo” đá Gạc Ma cũng có chức năng tương tự. Căn cứ vào lực lượng của Không quân và Hải quân Trung Quốc, sân bay trên đá Gạc Ma có thể chứa các loại chiến đấu cơ J-11 (có nguồn gốc từ Su-27) và J-16 (có nguồn gốc từ Su-30MKK2). Cả hai loại chiến đấu cơ này đều có bán kính hoạt động ít nhất 1.600 km.
Sân bay trên “đảo nhân tạo” Gạc Ma dự kiến cũng sẽ chứa được máy bay tuần tra biển được cải tiến từ máy bay vận tải Thiểm Tây Y-8. Một phát triển đáng chú ý nữa là loại thủy phi cơ JL-600. Sau khi trải qua các đợt thử nghiệm trong 2 năm 2013 và 2014, thủy phi cơ JL-600 sẽ giúp cho quân đội Trung Quốc linh hoạt hơn trong các hoạt động ở Biển Đông.
Trong khi đó, Đài Loan đã xây dựng một đường băng trên đảo Ba Bình từ năm 2006 và hiện đang nâng cấp các cơ sở hải quân ở đảo này. Về phần mình, Philippines cũng công bố kế hoạch nâng cấp đường băng và bến cảng trên đảo Thị Tứ, mặc dù nguồn lực vẫn là một vấn đề lớn đối với Manila. Chỉ có điều, không bên nào thay đổi hiện trạng “biến không thành có” như Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa.
Chiến đấu cơ J-11 có bán kính hoạt động ít nhất 1.600 km.
Trung Quốc khẳng định Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” và lẳng lặng tiến hành thay đổi nguyên trạng ở bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” phi lý này. Trung Quốc luôn đổ lỗi cho các bên tranh chấp khác có hành động khiêu khích và buộc Bắc Kinh phải phản ứng. Trong khi đó, tầm quan trọng chiến lược của các tuyến hàng hải trên Biển Đông (trên 80% nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc đi qua Biển Đông) chính là mệnh lệnh chính trị khiến Trung Quốc ráo riết thâu tóm vùng biển này.
Trong tháng 7/2014, Tiến sĩ Alessio Patalano của King College, London, nhận định rằng Trung Quốc đang thực thi “quyền lực lục địa” đối với Biển Đông và tập trung vào kiểm soát không gian. Điều này trái ngược hẳn với các quốc gia hàng hải khác như Mỹ và Vương quốc Anh, các nước muốn thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế cho mục đích sử dụng các vùng biển mà họ đã chiếm ưu thế trong thế kỷ qua.
Tiến sĩ Patalano cho rằng đối với Trung Quốc, “biển là một khu vực cần phải được đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước”, trong khi các cường quốc biển khác lại cho rằng “không gian hàng hải là của chung” và các quốc gia chỉ có thể “kiểm soát một cách hạn chế “.
Tại Biển Đông, sự khác biệt về nhận thức đó có thể buộc Mỹ phải rời bỏ chủ trương “không can thiệp” vào các tranh chấp chủ quyền mà Washington đã theo đuổi nhiều năm qua.
MINH ĐỨC
Theo_Đời Sống Pháp Luật
Nước cờ thí tốt xảo trá trên Biển Đông của Trung Quốc
Biển Đông như một "bàn cờ chính trị quốc tế". Việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam có thể là là một nước cờ thí tốt xảo trá. Vậy đâu mới là quân bài chủ chốt của Bắc Kinh?
Trong một bài viết gần đây đăng trên tạp chí China US Focus, Zhai Khun, giám đốc Viện nghiên cứu Chính trị thế giới tại CICIR đã mô tả Biển Đông như "một bàn cờ chính trị quốc tế".
Ghi nhận vai trò biến động của Biển Đông trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, Zhai tuyên bố trọng tâm hiện tại của Biển Đông theo sau bài phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton vào tháng 7/2010. Trong đó, bà Hilary khẳng định Biển Đông là "lợi ích quốc gia" của Mỹ.
Zhai nói rằng, tại thời điểm đó, Biển Đông là mục tiêu quan trọng trong cuộc cạnh tranh Trung-Mỹ và sự cạnh tranh giữa các quốc gia khác cũng có tuyên bố chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn được làm nóng lại. Điều này trùng hợp với một bài xã luận được đăng trên Tân Hoa Xã gần đây trong đó tuyên bố chính sách xoay trục của Mỹ đã "khuyến khích" các quốc gia như Việt Nam và Philippines đòi chủ quyền tại "vùng lãnh thổ của Trung Quốc" (điều này hoàn toàn phi lý) một cách mạnh mẽ hơn.
Đây là những khẳng định khá thú vị nhưng chúng không được nghiên cứu kỹ càng. Những thay đổi gần đây trên Biển Đông diễn ra độc lập với các hành động của Mỹ. Trên thực tế thì Mỹ đã không có hành động gì cả. Washington vẫn ủng hộ sự công bằng trong việc xử lý tranh chấp lãnh thổ - điều này đã khuyến khích Bắc Kinh có cách hành xử thô bạo hơn so với những gì họ đã làm trong nhiều năm qua khi đi đòi chủ quyền trên Biển Đông
Trong 2 năm qua, Trung Quốc đã thực hiện quyền kiểm soát hiệu quả với bãi cạn Scarborough, đe dọa thủy quân lục chiến Philippines và tiến hành phong tỏa một phần bãi Cỏ Mây và gần đây nhất là di chuyển một giàn khoan dầu khổng lồ của CNOOC vào sâu khu vực cách bờ biển Việt Nam 120 dặm.
Công khai đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam để thu hút sự chú ý của dư luận, Trung Quốc đã âm thầm xây dựng đảo nhân tạo tại khu vực quần đảo Trường Sa
Trong khi việc triển khai giàn khoan dầu chắc chắn là động thái gây tranh cãi nhất trong những năm gần đây, thì những bước tiến thú vị nhất về tình hình Biển Đông năm 2014 phải kể đến việc Trung Quốc âm thầm xây dựng đảo nhân tạo tại khu vực này. Những hình ảnh phân tích vệ tinh do các đồng nghiệp tại cơ quan tư vấn thông tin hàng hải IHS Maritime cho thấy Trung Quốc đang tiến hành nạo vét tại một số điểm trên khắp quần đảo Trường Sa.
Mặc dù điều này đang xảy ra, việc nạo vét này không đơn giản chỉ là cắt các kênh nối các rạn san hô. Thay vào đó, những gì Trung Quốc đang tiến hành là một hoạt động có quy mô lớn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho kế hoạch bành trướng sức mạnh ở phía nam Biển Đông.
Khu vực nạo vét rộng lớn nhất là ở đảo Gạc Ma, nơi từng diễn ra trận hải chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988 khiến hơn 70 chiến sĩ Việt Nam hy sinh. Sau hải chiến Trường Sa, Trung Quốc đã cho quân đồn trú tại đây.
Nếu những hình ảnh do Viện nghiên cứu và Thiết kế số 9 của Tổng công ty Đóng tàu Nhà nước Trung Quốc (CSSC) là đáng tin thì hòn đảo nhân tạo mới tại bãi Đá Gạc Ma có thể có một đường băng, nhà chứa máy bay, một đê chắn sóng và cầu cảng cỡ nhỏ, cối xay gió và nhà kính. Điều tương tự như vậy đã xảy ra tại đảo Phú Lâm của Việt Nam. Trung Quốc đã chiếm đóng đảo Phú Lâm của Việt Nam vào giữa năm 1950 và biến đây trở thành căn cứ không quân, hải quân của mình.
Trên đây là một trong những hoạt động đầu cơ mà Trung Quốc đang thực hiện để hỗ trợ cho việc phát triển các hòn đảo tại quần đảo Trường Sa.
Đài Loan kiểm soát đảo Ba Bình cũng đã xây dựng một đường băng từ năm 2006 và hiện đang nâng cấp cơ sở hải quân của mình tại đây. Philippines cũng công bố kế hoạch nâng cấp đường băng và bến tàu tại đảo Thị Tứ mặc dù các nguồn lực vẫn là vấn đề lớn đối với Manila.
Điểm khác biệt giữa các động thái của Trung Quốc và những nước nói trên trong việc làm thay đổi hiện trạng khu vực là gì. Quyền nắm giữ lãnh thổ trước đây đã thay đổi nhưng chỉ có Trung Quốc có những biện pháp và mong muốn dùng vũ lực để giải quyết vấn đề này. Dưới cái mác "trỗi dậy hòa bình", vấn đề này được đặt sang một bên và mở đường cho Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông 2002.
Những điều này đã thay đổi kể từ sau định nghĩa về Biển Đông của Trung Quốc - trong đó coi đây là "lợi ích cốt lõi" và làm dịu yêu sách "đường 9 đoạn". Trung Quốc cũng sẽ lập luận rằng hành động của các quốc gia khác đã buộc họ phải phản ứng lại trong khi tầm quan trọng chiến lược của tuyến đường cửa ngõ trên Biển Đông là nơi mà hơn 80% năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc phải đi qua. Cho nên việc kiểm soát Biển Đông là nhiệm vụ chính trị vô cùng cấp bách.
Đối với Trung Quốc, "biển là một khu vực cần chịu sự kiểm soát của nhà nước", Tiến sĩ Alessio Patalano thuộc Đại học King, London nói. Trong khi đối với các quốc gia giáp biển khác, "không gian trên biển là của chung, cần đi đến đàm phán và các quốc gia chỉ có thể kiểm soát một cách hạn chế". Tuy nhiên, tại Biển Đông, sự khác biệt trong nhận thức đang chuyển động xa hơn so với lý thuyết và điều này có thể buộc Mỹ phải phá bỏ hàng rào "không can thiệp"vào các tranh chấp chủ quyền mà Washington luôn bám vào trong nhiều năm qua.
Theo Tin mới