Cần chuẩn bị gì trước khi mang thai?
Cần chuẩn bị gì trước khi mang thai là một câu hỏi của nhiều cặp vợ chồng có kế hoạch sinh con. Vậy cần lưu ý những gì, dưới đây là một số vấn đề giúp bạn tham khảo.
Trên thực tế các cặp đôi có dự định mang thai sinh em bé, thì việc đầu tiên là cả hai vợ chồng đều ở giai đoạn thuận lợi nhất khi mang thai cả về sức khỏe, kinh tế, cũng như các kỹ năng và có quyết định mang thai.
Dưới đây là một số việc cần chuẩn bị :
Thăm khám trước mang thai:
Cả hai vợ chồng nên thực hiện một số thăm khám trước khi mang thai để có thể loại trừ, phát hiện sớm cũng như điều trị kịp thời các nguy cơ có thể gây nguy hiểm khi mang thai. Việc nên làm đầu tiên là gười vợ nên làm các xét nghiệm một số bệnh mãn tính khác nhau như lao, tiểu đường và tim mạch, … Bởi các căn bệnh mãn tính này nếu không được điều trị khỏi hoặc khống chế tốt rất có thể gây nên sẩy thai.
Ngoài ra, cũng cần chú ý kiểm tra các bệnh di truyền ở cả vợ và chồng ví dụ như bệnh Thalassemia, … Những căn bệnh này có thể tồn tại ở hai vợ chồng dạng ẩn không biểu hiện, nhưng những gen bệnh có thể tổ hợp lại và gây nên bệnh cảnh ở con.
Cả hai vợ chồng cần được làm các xét nghiệm loại trừ mắc các bệnh lây nhiễm như HIV, Rubella, giang mai, … Đây là những căn bệnh nguy hiểm có thể truyền sang con thông qua nhau thai khiến con mắc bệnh ngay khi mới sinh ra hay nghiêm trọng hơn có thể gây nên các dị tật bẩm sinh.
Bên cạnh đảm bảo sức khỏe không có các bệnh gây nguy hiểm cho quá trình mang thai, điều quan trọng không kém chính là tăng cường bồi bổ cơ thể trước khi mang thai. Các chất cần được chú ý bổ sung nhiều để đảm bảo cho quá trình mang thai là sắt (tạo máu), calci (cấu tạo hệ xương), acid folic (cấu tạo hệ thần kinh), …
Phụ nữ cần tiêm vắc xin phòng bệnh để chuẩn bị cho một thai kỳ khỏe mạnh
Video đang HOT
Hạn chế sử dụng thuốc và các chất kích thích
Trước khi mang thai cần hạn chế sử dụng thuốc và các chất kích thích. Sử dụng quá nhiều thuốc trước khi mang thai có thể gây nên sự tồn đọng thuốc trong cơ thể tác động xấu đến thai nhi. Đồng thời cũng cần hạn chế sử dụng các chất kích thích như thuốc lá, chè, café, rượu, …bởi những chất này có thể gây nên ảnh hưởng đến trứng và tinh trùng khiến quá trình thụ thai khó khăn hơn.
Độ tuổi thích hợp nhất để mang thai
Phụ nữ bắt đầu có khả năng mang thai từ lúc bước vào tuổi dậy thì với lần hành kinh đầu tiên và mất khả năng mang thai khi mãn kinh. Theo lí thuyết, phụ nữ trong độ tuổi này đều có thể thụ thai và sinh con. Nhưng theo các nghiên cứu chỉ ra, không phải tất cả mọi lứa tuổi trong giai đoạn này đều thích hợp để mang thai mà chỉ có nhóm tuổi 24-29 tuổi được đánh giá là phù hợp nhất để mang thai.
Khi bước vào dậy thì đến trước 24 tuổi, mặc dù buồng trứng đã hoạt động và có thể gây nên hiện tượng thụ thai nếu có quan hệ tình dục, nhưng sự thụ thai trong giai đoạn này lại có những bất lợi nhất định. Kể đến chính là sự chưa hoàn thiện hoàn toàn chức năng sinh sản của phụ nữ khiến thai dễ bị sang chấn, sinh non và thường nhẹ cân. Đồng thời, kiến thức và kinh tế của mẹ trong giai đoạn này còn yếu, do đó khả năng chăm sóc trong thai kỳ khá kém.
Sau khi bước qua 29 tuổi, ở giai đoạn này người mẹ ổn định hơn về kinh tế và các kiến thức cũng như kỹ năng. Nhưng kéo theo đó là sự lão hóa của cơ thể, đặc biệt dễ xảy ra các rối loạn trong giảm phân tạo giao tử ở phụ nữ. Do đó, những chị em phụ nữ chuẩn bị mang thai ở độ tuổi này, thai có nguy cơ mắc các dị tật bẩm sinh do di truyền cao hơn hẳn. Các dị tật bẩm sinh hay gặp như Down, tự kỷ, …
Vì vậy, lứa tuổi 24-29 tuổi là lứa tuổi thích hợp nhất để chuẩn bị mang thai, người phụ nữ ở giai đoạn này có sự phát triển hoàn thiện cơ thể, có những kiến thức, kỹ năng cần thiết cũng như khả năng kinh tế để bước vào thai kỳ.
Tiêm phòng trước khi mang thai
Tiêm phòng trước khi mang thai là một trong những việc cực kỳ quan trọng trong các bước chuẩn bị trước khi mang thai. Khi mang thai, hệ thống miễn dịch cơ thể mẹ sẽ yếu hơn bình thường. Do đó, nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm của mẹ cũng vì vậy mà tăng lên.
Việc tiêm phòng trước khi mang thai là cách tốt nhất để bảo vệ thai nhi tránh khỏi các bệnh nguy hiểm như Rubella, viêm gan B… Đây cũng là cách tốt để bảo vệ cho cả mẹ.
Tuy nhiên, khi tiêm vắc xin các mẹ cần hết sức lưu ý và tuyệt đối tuân theo chỉ định của bác sĩ. – Một số loại vắc xin sống như chủng ngừa sởi, quai bị, rubella (MMR), chị em được khuyến cáo không nên thụ thai trong vòng 3 tháng sau khi tiêm.
Vắc xin ngừa uốn ván, bạch hầu, ho gà (Tdap) có thể được tiêm trong khi bạn đang mang thai. Vacxin ngừa cúm thì có thể được tiêm trước hoặc trong khi mang thai tùy thuộc vào thời điểm (đang có dịch cúm hay không).
Từ những chú ý trên, để đảm bảo cho một thai kỳ khỏe mạnh các mẹ nên biết bản thân cần tiêm phòng vắc xin gì và chọn thời điểm tiêm phù hợp.
Phép màu cho các cặp đôi cùng mang gen bệnh dẫn đến liên tiếp bị phù thai
Với trên 12 triệu người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia), ước tính mỗi năm nước ta có khoảng 2.000 trẻ sinh ra bị bệnh thể nặng, khoảng 800 trẻ không thể ra đời do phù thai.
Có những người phụ nữ hết lần này đến lần khác bị phù thai mà chẳng thể hiểu nổi vì đâu số phận mình lại bất hạnh đến như vậy. Đó là một nỗi ám ảnh, day dứt, nỗi đau "đến chết cũng không quên được".
Hai lần liên tiếp bị phù thai
Chị Nguyễn Thị T. đã trải qua 2 lần đình chỉ thai trong nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Lần đầu tiên, chị T. phải xa lìa đứa con bé bỏng chưa kịp chào đời vì bị thai lưu. Chị chỉ nghĩ mình không may và lại tiếp tục ôm ấp hy vọng ở lần mang thai thứ hai.
Nhưng hy vọng bao nhiêu thì tuyệt vọng bấy nhiêu, đến tuần thai thứ 30, chị đi siêu âm bác sĩ lại phát hiện bánh nhau phát triển quá lớn, tim thai to và có nguy cơ dẫn tới phù thai. Từ quê nhà chị phải lặn lội lên Hà Nội để khám. Lúc này chị mới biết nguyên nhân của những nỗi đau liên tiếp ấy, đó là do 2 vợ chồng chị cùng mang gen bệnh tan máu bẩm sinh. Nghe bác sĩ thông báo mà chị tưởng như sét đánh ngang tai.
Chị ngồi ở hành lang bệnh viện hàng giờ với hai hàng nước mắt chảy dài. Giờ đây con vẫn đạp trong bụng mẹ mà ngày mai sẽ phải xa con, chị tưởng như không thể vượt qua nỗi đau "đến chết cũng không quên được" ấy.
Với trên 12 triệu người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia), ước tính mỗi năm nước ta có khoảng 2.000 trẻ sinh ra bị bệnh thể nặng, khoảng 800 trẻ không thể ra đời do phù thai.
Hy vọng nhờ chẩn đoán trước chuyển phôi
Nỗi ám ảnh quá lớn khiến chị T. không dám nghĩ đến việc tiếp tục mang thai nữa. Phải chờ đến 3 năm sau, vợ chồng chị mới dám lấy hết can đảm đến Viện Huyết học - Truyền máu TW xét nghiệm gen và xin tư vấn của các bác sĩ. Năm 2019, anh chị quyết định đi thụ tinh nhân tạo và thực hiện chẩn đoán trước chuyển phôi.
Sau những nỗi đau thì cuối cùng may mắn cũng đến, gia đình chị T. vỡ òa hạnh phúc khi đón chào một em bé khỏe mạnh ra đời. Nhìn con lớn lên từng ngày, chị xúc động chia sẻ:
"Người ta có con thì dễ dàng mà sao hành trình làm mẹ của em lại gian truân, đau khổ như thế. Hai lần mất con khi con đã lớn làm em tuyệt vọng. Nếu không được biết về các biện pháp chẩn đoán trước sinh thì em cũng không dám sinh con nữa. Chúng em đã có một đứa con khỏe mạnh, điều đó như một giấc mơ vậy".
Tan máu bẩm sinh là nỗi đau đeo đẳng suốt cả cuộc đời người bệnh, là nỗi ám ảnh khôn nguôi với những người cha, người mẹ mang cùng gen bệnh. Nhưng với những tiến bộ của y học, người mang gen bệnh hoàn toàn có thể chủ động phòng tránh sinh ra con bị bệnh.
TS.BS. Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Trung tâm Thalassemia cho biết: "Hiện nay, tại Việt Nam đã có thể triển khai các biện pháp chẩn đoán trước sinh thalassemia ngang tầm với các nước trong khu vực như chẩn đoán thai nhi, chẩn đoán trước chuyển phôi. Mỗi năm, Trung tâm Thalassemia, Viện Huyết học - Truyền máu TW thường xuyên xét nghiệm và tư vấn cho khoảng trên 300 cặp vợ chồng thực hiện sàng lọc, chẩn đoán trước sinh Thalassemia, từ đó đã có hàng trăm em bé khỏe mạnh ra đời.
Tôi rất mong tất cả các bạn trẻ và những người trong độ tuổi sinh đẻ hãy thực hiện tầm soát gen bệnh tan máu bẩm sinh càng sớm càng tốt. Các cặp vợ chồng không may cùng mang gen bệnh hãy đi khám để được tư vấn và lựa chọn biện pháp chẩn đoán trước sinh phù hợp".
Mỗi năm, Trung tâm Thalassemia, Viện Huyết học - Truyền máu TW thường xuyên xét nghiệm và tư vấn cho khoảng trên 300 cặp vợ chồng thực hiện sàng lọc, chẩn đoán trước sinh Thalassemia, từ đó đã có hàng trăm em bé khỏe mạnh ra đời.
Trong thời gian qua, Viện Huyết học - Truyền máu TW đã đẩy mạnh công tác truyền thông và thực hiện khảo sát dịch tễ về tan máu bẩm sinh trên toàn quốc, nghiên cứu, hoàn thiện các kỹ thuật xét nghiệm đột biến gen thalassemia nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán người mang gen và chẩn đoán trước sinh, tiến tới giảm dần số trẻ em sinh ra bị bệnh.
Nhiều đề tài nghiên cứu có giá trị về bệnh tan máu bẩm sinh sẽ được báo cáo tại Hội nghị khoa học Huyết học - Truyền máu toàn quốc năm 2020 (diễn ra từ ngày 26 - 27/11/2020 tại Hà Nội). Đó là cơ hội tốt để các cán bộ y tế trên toàn quốc cập nhật các kiến thức mới, chia sẻ kinh nghiệm trong điều trị, chẩn đoán trước sinh thalassemia nói riêng cũng như các lĩnh vực thuộc chuyên khoa Huyết học - Truyền máu TW nói chung.
Hội nghị khoa học Huyết học - Truyền máu toàn quốc năm 2020 là Hội nghị khoa học lớn nhất của ngành Huyết học - Truyền máu được tổ chức định kỳ, góp phần vào sự phát triển của chuyên ngành và sự nghiệp bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Các đại biểu sẽ có cơ hội cập nhật kiến thức mới, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn thông qua gần 100 bài chuyên luận và báo cáo có chất lượng về các lĩnh vực: Huyết học lâm sàng, Huyết học cận lâm sàng, Truyền máu, Ghép tế bào gốc, Di truyền - Sinh học phân tử... cùng với các gian triển lãm và các hoạt động bên lề có ý nghĩa...
TS. Bạch Quốc Khánh, Viện trưởng Viện Huyết học - Truyền máu TW, Trưởng Ban tổ chức Hội nghị khoa học Huyết học - Truyền máu toàn quốc 2020 cho biết :
"Năm 2020 là một năm đầy biến động do đại dịch COVID-19 lan rộng trên toàn cầu, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác truyền máu tại hàng loạt quốc gia phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng về nguồn người hiến máu. Tuy nhiên, ngành Huyết học - Truyền máu Việt Nam đã chủ động, sáng tạo trong việc huy động người hiến máu và tổ chức tiếp nhận, cung cấp máu an toàn, góp phần vào thành công chung của cả nước trước đại dịch.
Dưới áp lực rất lớn vừa điều trị, vừa phòng chống dịch, đội ngũ chuyên gia, cán bộ y tế vẫn không ngừng học hỏi, nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị bệnh máu và cơ quan tạo máu. Những nỗ lực đó thể hiện ở các đề tài nghiên cứu khoa học tham gia trình bày tại hội nghị được đầu tư cả về chất lượng và số lượng, có giá trị thực tiễn cao đối với công tác truyền máu và điều trị, chăm sóc người bệnh. Hội nghị là cơ hội rất tốt để các cán bộ chuyên môn cập nhật kiến thức khoa học, trao đổi kinh nghiệm, góp phần đưa chuyên khoa Huyết học - Truyền máu Việt Nam ngày càng phát triển toàn diện và hội nhập với nền y học thế giới.
Hội nghị cũng dành thời lượng cho chuyên đề Báo cáo viên trẻ với 17 báo cáo do các cán bộ trẻ trình bày. Đây là hoạt động thực sự ý nghĩa được duy trì trong các kỳ Hội nghị khoa học Huyết học - Truyền máu toàn quốc, nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ trẻ được học hỏi, thực hành nghiên cứu khoa học và phát huy năng lực, xây dựng đội ngũ kế cận cho chuyên ngành.
Các bệnh viêm tuyến giáp Viêm giáp (viêm tuyến giáp) là tình trạng viêm (sưng) tuyến giáp. Đây là một tuyến nhỏ ở dưới cổ đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát quá trình chuyển hóa. Viêm có thể dẫn đến tuyến giáp hoạt động quá mức (cường giáp) hoặc giảm hoạt động (suy giáp). Viêm tuyến giáp là biểu hiện viêm tại tuyến giáp mà...