Cách ly hai “ngòi nổ”, tỷ giá USD/VND đang khác biệt
Hai “ngòi nổ” được cách ly, thêm một lần nữa tỷ giá USD/VND cho thấy khác biệt khi nằm trong những tác động bất lợi.
Trong một triển vọng khác, cả thế giới đang nhìn về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể giảm lãi suất tới đây.
Chốt tuần đầu tiên tháng 6/2019, giá vàng đánh dấu chuỗi 8 phiên liên tiếp tăng mạnh. Từ khoảng 1.300 USD/ounce, trong tuần đã có những thời điểm mốc 1.350 USD/ounce đạt tới. Tính chung quãng vừa qua, giá vàng thế giới tăng gần 4% chỉ trong thời gian ngắn.
Mức biến động trên cũng truyền dẫn vào giá vàng trong nước; mức giá vàng miếng SJC chính thức vượt trên mốc 37 triệu đồng/lượng. Nhưng thị trường trong nước nhìn chung không có xáo trộn lớn.
Khoảng 5 năm về trước, mỗi lần giá vàng thế giới nổi sóng, giá vàng trong nước bắt nhịp gần như liên thông và thậm chí nhiều thời điểm cao hơn giá thế giới với mức độ lớn, tình trạng người dân xếp hàng mua vàng tái diễn.
Nhưng nay, kể từ sau cao điểm đấu thầu vàng và quy hoạch lại thị trường trong nước quãng cuối 2013 đầu 2014, cho đến nay tình trạng đổ xô xếp hàng mua vàng đã không còn xẩy ra, ngoại trừ hàng năm có ngày vía Thần Tài theo quan niệm nhiều người.
Cũng trong khoảng thời gian đó đến nay, Việt Nam đã không còn phải chi ra 1 USD nào để nhập khẩu vàng về theo kênh chính ngạch. Hoạt động nhập lậu cũng hạn chế từ chênh lệch giá trong nước với thế giới thu hẹp, thậm chí nhiều thời điểm giá trong nước thấp hơn giá thế giới.
Theo đó, “ngòi nổ” đầu tiên đối với tỷ giá USD/VND là nguồn ngoại tệ ngốn vào để nhập vàng về và kích thích cầu ngoại tệ trên thị trường đã được cách ly, thể hiện và góp phần tạo khác biệt cho diễn biến tỷ giá hiện nay.
“Ngòi nổ” thứ hai nằm ở lãi suất USD, theo chênh lệch lãi suất USD với VND – yếu tố trực tiếp tác động đến lựa chọn lợi ích nắm giữ, đầu tư vào ngoại tệ trong dân cư và qua đó tác động đến một phần cân đối cung – cầu ngoại tệ thương mại trên thị trường.
Video đang HOT
Những năm qua, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì chính sách trần lãi suất tiền gửi USD ở 0%/năm. Ở kênh giao dịch với dân cư, chênh lệch lãi suất VND trở nên quá lớn so với lãi suất USD, nhất là từ cuối 2018 đến nay lãi suất huy động VND tăng và giữ ở mức cao. Nếu tính cả lợi ích gia tăng tỷ giá, việc nắm giữ USD tại Việt Nam vẫn có triển vọng kém hơn nhiều lần so với VND gửi ngân hàng.
Theo đó, “ngòi nổ” từ lãi suất đối với lợi ích nắm giữ USD trong dân cư một phần cũng được cách ly tác động đến tỷ giá.
Nhưng, trên thị trường liên ngân hàng, cân đối chênh lệch lãi suất giữa USD với VND không thuận lợi như chính sách áp trần 0%/năm đối với tiền gửi dân cư. “Ngòi nổ” chênh lệch lãi suất ở đây buộc Ngân hàng Nhà nước phải liên tục can thiệp, ráo riết xoa dịu hiện nay.
Cụ thể, từ cuối tháng 5 vừa qua và cho đến cuối tuần qua, thị trường liên ngân hàng ban đầu ghi nhận lãi suất VND liên tiếp giảm nhanh và mạnh, có thời điểm lãi suất VND qua đêm rơi về 2,5%/năm và gần như ngang bằng với lãi suất USD (dẫn tới điểm hoán đổi lãi suất gần như bằng 0 và thường tác động gia tăng tỷ giá).
Ngay lập tức, trên kênh tín phiếu, Ngân hàng Nhà nước cấp tập phát hành với quy mô lớn và đột biến để hút bớt vốn VND về; lãi suất tín phiếu giữ 3%/năm được xem như một “mức sàn” để hạn chế lãi suất liên ngân hàng rơi quá sâu mà tác động đến tỷ giá.
Những phiên phát hành tín phiếu quy mô lên tới 18.000 – 20.000 tỷ đồng/phiên xuất hiện. Lượng tiền VND hút về “cất kho ngắn hạn” có lúc số dư lên tới trên 80.000 tỷ đồng… Nguồn có biểu hiện dư thừa lớn như vậy một phần cũng liên quan đến lượng lớn tiền gửi ngân sách tồn đọng trong hệ thống, khi mà giải ngân vốn đầu tư công vẫn rất chậm chạp sau 5 tháng đầu năm.
Với can thiệp ráo riết trên, Ngân hàng Nhà nước cân đối và xoa dịu được “ngòi nổ” của chênh lệch lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, để tiếp tục tạo được khác biệt trong ổn định tỷ giá.
Khác biệt, vì như trên, bên cạnh yếu tố giá vàng, vừa qua tỷ giá USD/VND cũng nằm trong ảnh hưởng từ những biến động mạnh của giá USD và Nhân dân tệ trên thị trường thế giới; và song song là câu chuyện Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách giám sát, cũng như xung đột thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc, Mexico, Ấn Độ thêm những diễn biến phức tạp…
Thêm nữa, nội tại, từ tháng 5 vừa qua Việt Nam trở lại nhập siêu khá mạnh. Dù trong ngắn hạn chưa khẳng định sớm về một xu hướng, cán cân tổng thể những tháng đầu năm vẫn thặng dư ở mức cao thể hiện qua lượng mua ròng ngoại tệ Ngân hàng Nhà nước thực hiện lớn, nhưng cho thấy một yếu tố cân đối đã không còn thuận lợi như cùng kỳ năm trước.
Nhưng, như trên, với hai “ngòi nổ” quan trọng, từng kích hoạt lớn nhiều thời điểm trước đây, nay đang được cách ly, mục tiêu giữ ổn định tỷ giá USD/VND mà Ngân hàng Nhà nước thực hiện năm nay vẫn đang có những khác biệt so với giai đoạn trước.
Và, trong một triển vọng khác, cả thế giới đang nhìn về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể giảm lãi suất tới đây.
MINH ĐỨC
Theo bizlive.vn
'Giải mã' FED tăng lãi suất và tác động tỷ giá năm 2019
Mặc dù FED sẽ tiếp tục lộ trình tăng lãi suất nhưng về cơ bản, tần suất tăng sẽ ít dần. Trên cơ sở đó, nhiều phân tích cho rằng áp lực đối với VND trong năm 2019 sẽ không nhiều như năm 2018. Tuy vậy, NHNN nhiều khả năng vẫn sẽ điều hành thanh khoản VND theo hướng chặt chẽ.
Năm 2019, lãi suất USD của FED vẫn tăng nhưng tần suất không dày như 2018
Ngày 20/12, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã lần thứ 4 trong năm 2018 tăng lãi suất thêm 0,25%. Theo dự báo mới của FED, dự kiến sẽ còn tăng khoảng 2 lần nữa trong năm 2019 và 1 lần nữa trong năm 2020).
Phân tích về chủ đề này công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) khẳng định không thấy quá nhiều rủi ro đối với lãi suất trong năm 2019, nhất là trong bối cảnh lạm phát đang có xu hướng hạ nhiệt Cuộc họp chính sách tháng 12 của FED đã kết thúc vào rạng sáng ngày 20/12/2018 (theo giờ Việt Nam) với kết quả lãi suất sẽ được tăng thêm 0,25%, lên mức 2,25-2,5%. Liên quan đến sự kiện này, BVSC có một số nhận định nhanh.
Việc tăng lãi suất lần này trên thực tế đã được dự báo từ trước. Điều nhà đầu tư chờ đợi là những thông điệp FED đưa ra sau cuộc họp lần này. Cụ thể, mức dự báo trung vị về lãi suất của FED vào cuối năm 2019 và 2020 lần lượt là 2,9% và 3,1% - thấp hơn so với mức 3,1% và 3,4% trong dự báo của FED hồi tháng 9/2018. Đồng thời, mức lãi suất "trung tính" cũng được FED dự kiến ở mức 2,8% thay cho mức 3% trước đây. Điều này hàm ý mức lãi suất vào cuối chu kỳ tăng của FED có thể còn vượt mức lãi suất trung tính.
BVSC cho rằng những ước tính của FED về các mức lãi suất mới trong thời gian tới có phần kém "nới lỏng" hơn so với bài phát biểu của chủ tịch FED hồi cuối tháng 11 (ông Powell khi đó cho rằng mức lãi suất hiện tại đã ở ngay dưới mức lãi suất "trung tính" (just below the neutral rate), hàm ý lộ trình tăng lãi suất của FED sẽ không còn quá gấp gáp).
Việc FED dự kiến có thể tăng lãi suất lên trên mức trung tính cho thấy sự thận trọng của cơ quan này. Đây cũng có thể là lý do khiến nhà đầu tư có phần thất vọng.
Lý do FED vẫn quyết định tăng lãi suất trong tháng 12 và dự kiến sẽ còn tăng khoảng 2 lần nữa trong năm 2019 và 1 lần nữa trong năm 2020 chủ yếu xuất phát từ thực trạng của kinh tế Mỹ hiện nay (FED đánh giá tăng trưởng của Mỹ hiện là mạnh mẽ ("strong"). Trước cuộc họp, nhiều nhà đầu tư kỳ vọng đà lao dốc của TTCK Mỹ thời gian gần đây và lạm phát lõi của Mỹ đang cho xu hướng giảm, ở mức dưới mục tiêu 2% có thể là lý do khiến FED xem xét chưa tăng lãi suất trong tháng 12.
Trên thực tế, quan sát từ năm 1980 cho thấy, FED hiếm khi tăng lãi suất trong những giai đoạn TTCK Mỹ giảm điểm mạnh. Tuy nhiên, bằng quyết định tăng lãi suất đêm 20/12, FED cho thấy cơ quan này hiện vẫn chú trọng mục tiêu hạ nhiệt dần nền kinh tế, đưa tăng trưởng của Mỹ về mức tiềm năng, tránh một cú "hạ cánh cứng".
Mặc dù FED đã đưa ra lộ trình tăng lãi suất trong thời gian tới nhưng các bước đi tiếp theo của FED sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào các dữ liệu kinh tế hàng tháng, hàng quý của Mỹ (data dependent) chứ không nhất thiết phải "cứng nhắc" đi theo lộ trình đã vạch sẵn. Trên cơ sở đó, nếu dự báo của chúng tôi về khả năng kinh tế Mỹ sẽ bước vào pha suy giảm chậm nhất trong nửa đầu năm 2020 là đúng thì đỉnh lãi suất của FED có thể sẽ rơi vào cuối năm 2019, đầu năm 2020. Sau đó, FED có thể sẽ xem xét cắt giảm lãi suất trở lại trong nửa cuối năm 2020 để hỗ trợ nền kinh tế. Thực chất, việc FED liên tiếp tăng lãi suất cũng chính là tạo không gian chính sách (policy space) khi kinh tế Mỹ rơi vào pha suy giảm.
Tuy vậy, chưa có nhiều cơ sở để tin tưởng chắc chắn là dòng tiền đã quay trở lại thị trường mới nổi (Ems) một cách bền vững. Việc các EMs đang chống đỡ tốt hơn so với TTCK Mỹ mang tính ngắn hạn và có thể sẽ sớm kết thúc. Đúng là việc lạm phát giảm (nhờ giá dầu lao dốc) và NHTW tại một số thị trường mới nổi đã tạm dừng tăng lãi suất (Philippines, Indonesia...) là những lý do khiến các thị trường EMs trở nên bớt rủi ro.
Rủi ro của các EMs trong thời gian tới vẫn rất khó lường trong bối cảnh FED vẫn rất kiên định với việc tăng lãi suất và việc kinh tế Trung Quốc lao dốc mạnh hơn dự kiến trong năm 2019 có thể sẽ khiến tăng trưởng của các EMs (các nước xuất khẩu nhiều sang Trung Quốc như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia...) chịu ảnh hưởng mạnh hơn các dự tính hiện nay. Do vậy, vẫn cần thêm thời gian và dữ liệu để khẳng định về sự hồi phục vững chắc của các EM.
Tỷ giá trung tâm VND/USD cuối năm 2018 đã tăng khoảng 1,5% so với đầu năm, tỷ giá NHTM tăng khoảng 2,8% và tỷ giá thị trường tự do tăng khoảng 3,5% so với đầu năm.Sang năm 2019, theo dự báo của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, áp lực lên tỷ giá được giảm thiểu do các yếu tố tác động trong nước và quốc tế đang có chiều hướng thuận lợi hơn so với dự báo. khả năng USD sẽ không tăng nhiều thậm chí có thể suy yếu hơn; Lạm phát trong nước có khả năng kiểm soát khoảng 4% do giá hàng hóa thế giới tăng không lớn, áp lực lên tỷ giá giảm bớt.
KHÁNH HUYỀN
Theo tienphong.vn
Sắp dừng cho vay ngoại tệ với doanh nghiệp sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước NHNN cho biết, tín dụng ngoại tệ ngắn hạn những tháng đầu năm 2018 liên tục tăng. Nguyên nhân chủ yếu do tỷ giá ổn định dẫn đến lãi suất USD vay thấp hơn tương đối so với lãi suất vay VNĐ. Vì vậy tín dụng ngắn hạn ngoại tệ cần phải được kiểm soát chặt chẽ theo hướng thu hẹp dần. Đây...