Cả nước chỉ có 23 đại học công lập tự lo 100% kinh phí
Câu chuyện tự chủ đại học đang đặt nặng về tài chính mà chưa chú trọng tới tổ chức, quản trị, hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ…
Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng vừa giám sát việc thực hiện Luật giáo dục đại học ở 16 cơ sở giáo dục đại học tại 7 tỉnh, thành phố, trong đó có giám sát về việc thực hiện quyền tự chủ. Ông Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban, có cuộc trao đổi với VnExpress về vấn đề này.
- Ông đánh giá thế nào việc thực hiện quyền tự chủ đại học của các trường?
- Theo Luật giáo dục đại học, tự chủ đại học rất toàn diện, bao gồm tự chủ về tổ chức bộ máy – nhân sự, tài sản – tài chính và chuyên môn học thuật. Các cơ sở giáo dục đại học đã chủ động hơn trong việc này và quyền tự chủ đã mang đến những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền tự chủ đại học vẫn còn một số hạn chế, trong đó có sự chưa thống nhất trong quan niệm. Về phía cơ quan nhà nước, tự chủ đại học hiện được tiếp cận từ góc độ tài chính, chủ yếu là mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động mà chưa chú trọng tới tổ chức, nhân sự, quản trị, tiềm lực và kinh nghiệm về hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ cũng như các điều kiện khác.
Trong khi đó, các trường cho rằng tự chủ là bản chất, là thuộc tính và là quyền đương nhiên được hưởng mà không thấy rằng việc thực hiện tự chủ phụ thuộc vào năng lực thực hiện của đơn vị đáp ứng các tiêu chí định trước về chi phí và kết quả hoạt động.
Nhìn chung, câu chuyện tự chủ đang đặt nặng tự chủ về tài chính.
Ông Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng. Ảnh: Dương Tâm
- Tại sao bây giờ mới có 23 trường công lập được thí điểm giao quyền tự chủ cao?
- 23 cơ sở giáo dục đại học công lập được Chính phủ cho thí điểm tự chủ đều là những trường có thể tự lo 100% kinh phí, từ chi thường xuyên đến đầu tư phát triển. Và tôi cho rằng việc các trường lo được toàn bộ kinh phí mới được thí điểm giao quyền tự chủ cao là chưa hoàn toàn phù hợp.
Thực tế cho thấy những trường tự lo được kinh phí hiện nay chủ yếu là giảng dạy các ngành kinh tế, xã hội, nhân văn, kỹ thuật, công nghệ. Hầu hết trường trong số đó không phải đầu tư máy móc, phòng thí nghiệm nhiều và có nhiều ngành đào tạo có nhu cầu xã hội cao.
Ngược lại, nhu cầu đối với ngành thuộc trường khối sư phạm hay khoa học cơ bản không cao, xã hội không thực sự mặn mà trong khi rõ ràng nhà nước, nền kinh tế xã hội lại cần. Vì vậy nếu đặt nặng vấn đề kinh phí, những trường này khó có thể tự chủ cao được.
Tuy nhiên, các trường cũng cần thoát khỏi tư duy bao cấp, trông chờ quá nhiều vào ngân sách nhà nước để hướng tới sự phát triển, tránh làm mất đi tính năng động, chủ động, tự chủ. Hiện tại, ngoài 23 trường tự chủ hoàn toàn về tài chính, nhà nước, các bộ ngành, địa phương vẫn cấp kinh phí cho các trường công lập theo số lượng sinh viên.
Tôi cho rằng cần đổi mới cơ chế đầu tư. Nhà nước phải ra nhiệm vụ “đặt hàng” hoặc thậm chí các trường phải đấu thầu với nhà nước, nhận nhiệm vụ nào để có được kinh phí; thậm chí ngay trong một trường, những ngành có nhu cầu xã hội cao sẽ không được nhận kinh phí.
- Theo quy định, đại học được tự chủ về tuyển sinh, nhưng thực tế hầu hết trường phụ thuộc vào kết quả thi THPT quốc gia. Qua giám sát, ông ghi nhận lý do gì dẫn tới điều này?
- Tôi không nghĩ tuyển sinh dựa theo kết quả thi THPT quốc gia là không tự chủ. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường được phép có phương án tuyển sinh riêng, lập đề án để Bộ phê duyệt và tiến hành tổ chức. Thế nhưng chỉ có một số ít trường yêu cầu đào tạo về năng khiếu mới có thêm xét tuyển và đánh giá riêng, còn lại hầu hết dựa trên kết quả thi THPT quốc gia. Đó là do trường lựa chọn, là biểu hiện của quyền tự chủ vì họ đã chọn giải pháp tối ưu nhất.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các trường tuyển sinh dựa vào kết quả thi THPT quốc gia. Thứ nhất, những năm trường tổ chức tuyển sinh đại học riêng thì hầu hết đều kêu lỗ, vì lệ phí tuyển sinh được phép thu không đủ lấy thu bù chi. Như vậy, xét tuyển trên kết quả thi THPT quốc gia là phương án tối ưu về kinh tế.
Thứ hai, kết quả thi THPT quốc gia là chắc chắn, an toàn cho các trường vì đây là kỳ thi quốc gia do Bộ Giáo dục tổ chức, một kỳ thi trên nguyên tắc phải rất nghiêm túc, chính xác, khách quan và công bằng.
Thứ ba, việc tổ chức một kỳ thi đánh giá năng lực về kiến thức phổ thông không phải dễ thực hiện với tất cả trường vì không phải trường nào cũng có đội ngũ giáo viên cơ bản để ra đề và chấm thi.
Như vậy, các trường tuyển sinh dựa trên kỳ thi THPT quốc gia là thuận tiện về nhiều phương diện. Bộ Giáo dục không bắt buộc phải theo hình thức nào thì đương nhiên các trường sẽ chọn tuyển sinh theo cách này dù xét về mặt chất lượng sự phù hợp của thí sinh thì chắc không được tốt bằng việc có phương án tuyển sinh riêng.
Video đang HOT
- Vậy cách tuyển sinh nào là tốt nhất?
- Như tôi nói ở trên, cách tuyển sinh dựa theo kết quả thi THPT quốc gia là tối ưu về nhiều phương diện, nhưng sẽ không tuyển được thí sinh phù hợp nhất, chất lượng nhất với các ngành nghề, trường đào tạo. Vì vậy, nếu cứ mãi chọn theo phương án này, tôi cho là cũng không tốt.
Về mặt chuyên môn, nếu tổ chức được một kỳ thi riêng, các trường sẽ vừa thể hiện quyền tự chủ của mình, vừa lựa chọn được những thí sinh tốt nhất, đáp ứng nhu cầu cao nhất của trường về mặt đào tạo. Đầu vào tốt thì đương nhiên đó là điều kiện cần để có đầu ra tốt.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, các trường lựa chọn phương án tuyển sinh theo kết quả thi THPT quốc gia là rất bình thường vì nó đơn giản, an toàn và hiệu quả nhất. Khi tổ chức kỳ thi tuyển sinh riêng, ngoài khó khăn về kinh tế, khâu tổ chức, các trường phải chịu áp lực lớn vì dư luận xã hội rất quan tâm. Bất kỳ một sơ suất nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhà trường.
- Nhiều nhà giáo dục cho rằng cơ chế tự chủ đại học làm số lượng trường gia tăng mạnh. Để đảm bảo tồn tại, các trường tuyển sinh bằng mọi giá dẫn đến chất lượng đầu vào thấp. Quan điểm của ông về việc này như thế nào?
- Có thời điểm chúng ta tính việc phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo cách tính số sinh viên trên 10.000 dân. Theo chỉ tiêu đó, số sinh viên và số trường của Việt Nam chưa phải quá nhiều so với khu vực.
Tuy nhiên so với thực tế, có thể thấy dường như số lượng gần 250 đại học của Việt Nam là nhiều dẫn đến hệ lụy nguồn tuyển đầu vào bị hạn chế. Rõ ràng để đảm bảo điều kiện tồn tại, một số trường đã phải lấy điểm tuyển sinh thấp khiến chất lượng thí sinh không cao, làm ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra.
Giáo dục đại học khác các bậc khác là phải sáng tạo ra tri thức mới cho xã hội thông qua con đường nghiên cứu khoa học. Nếu say sưa vào việc có số lượng sinh viên tối đa để thu được học phí nhiều, các trường sẽ bị chi phối về thời gian, nguồn lực; từ đó bị hạn chế nghiên cứu khoa học vì nghiên cứu cần sự đầu tư rất lớn về tài chính, con người và thời gian.
- Vậy để các đại học vừa tự chủ, vừa có tên trên bảng xếp hạng quốc tế, các đại học Việt Nam phải làm gì?
- Rõ ràng các bảng xếp hạng đại học quốc tế uy tín rất chú trọng công bố quốc tế, các lượt trích dẫn… Đó là kết quả của những nghiên cứu khoa học được công nhận. Như vậy, các trường muốn có mặt trong các bảng xếp hạng thì buộc phải thay đổi định hướng hoạt động của mình, không chỉ chú trọng vào việc dạy mà còn phải quan tâm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.
Khi lọt vào một bảng xếp hạng thì thương hiệu, uy tín nhà trường sẽ tăng lên, cơ hội hợp tác quốc tế cũng nhiều hơn. Việc tham gia các bảng xếp hạng đại học thế giới là xu thế và các trường được khuyến khích để làm việc đó. Các trường phải đối chiếu với hệ thống tiêu chí của các bảng xếp hạng để bổ sung cái còn thiếu.
Vào ngày 17/8 tới, Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng tổ chức Hội thảo Giáo dục 2018 với chủ đề “Giáo dục đại học – Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế”. Chúng tôi mong muốn có thể nhận diện được thực trạng giáo dục đại học Việt Nam, từ đó có đề xuất, định hướng, những giải pháp cơ bản để tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời có những góp ý vào việc sửa đổi Luật giáo dục đại học.
Dương Tâm
Theo Vnexpress
"Các trường đại học không thể tự nhận trường tốt, trường lớn được"
Việc hội nhập quốc tế của giáo dục đại học là cả một quá trình dài để ta xác định đâu là chuẩn, đâu là điều kiện mà chúng ta phải phấn đấu, không phải là câu chuyện ngày một ngày hai. Các trường không thể tự nhận là trường tốt, mà phải dựa vào đánh giá của các tổ chức kiểm định quốc tế cũng như trong nước.
Đó là ý kiến của ông Phạm Tất Thắng - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng về chuẩn hóa giáo dục đại học để hội nhập quốc tế.
Phóng viên Báo Dân trí đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Tất Thắng về vấn đề hội nhập quốc tế của giáo dục đại học Việt Nam.
Ông Phạm Tất Thắng
Hội nhập quốc tế là yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục đại học
Thưa ông, chúng ta có tiêu chí hay tiêu chuẩn nào để đánh giá một trường ĐH hay một nền GD ĐH được cho là hội nhập đạt chuẩn quốc tế?
Việc chuẩn hóa và hội nhập quốc tế chính là chủ đề của Hội thảo giáo dục năm 2018 về chất lượng giáo dục đại học do Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức tới đây.
Những tiêu chuẩn mang tính định lượng thì đến nay mỗi bảng xếp hạng có những tiêu chí riêng nhưng cũng có những yêu cầu chung nhất định. Nhưng trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, những yêu cầu trước cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, thì rõ ràng hội nhập quốc tế là một yêu cầu bắt buộc với các trường ĐH.
Giáo dục ĐH với tư cách là bậc đào tạo cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực có trình độ cao là nơi nghiên cứu, sáng tạo những tri thức mới. Do đó, việc hội nhập quốc tế của GD ĐH cần phải đặt ra những yêu cầu cấp thiết và đòi hỏi cao hơn những lĩnh vực khác.
Đối với hội nhập quốc tế, khi chúng ta đã bước vào một sân chơi chung với các nước khu vực và trên thế giới thì chúng ta phải chấp nhận, phải đáp ứng được luật chơi chung. Các trường ĐH sẽ phải đạt được những yêu cầu trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao có thể thích ứng với hội nhập quốc tế, không đơn thuần chỉ trong phạm vi đất nước. Như vậy, chất lượng đào tạo của chúng ta phải được thế giới công nhận và đồng thời phải đủ trình độ để hội nhập.
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có 2 ĐH được nằm trong top 1.000 ĐH xếp thứ hạng cao nhất thế giới. Đó là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Những công nhận của các tổ chức kiểm định quốc tế phần nào đã thể hiện được chuẩn hóa trong hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục ĐH nước ta.
Ông có nhắc đến một tiêu chí rất quan trọng đó là chất lượng nguồn nhân lực của nước ta, vậy phải đào tạo làm sao để đạt yêu cầu hội nhập của khu vực và quốc tế. Nhưng thực tế, câu chuyện này có vẻ đang rất khó khăn đối với các trường ĐH Việt Nam kể cả đối với 2 ĐH đã lọt top 1.000 của thế giới ?
Phát triển giáo dục, trong đó có giáo dục ĐH luôn tương ứng với trình độ phát triển của nền kinh tế, xã hội của mỗi đất nước. Nghĩa là kinh tế - xã hội phát triển tới đâu thì giáo dục sẽ phát triển tới mức độ đó. Giáo dục ĐH có thể có những bước phát triển, hội nhập quốc tế nhanh hơn, sớm hơn so với cả nền kinh tế nhưng vẫn bị phụ thuộc bởi vì nó có liên quan đến việc đầu tư của Nhà nước, của xã hội cho giáo dục.
Cho nên việc hội nhập của giáo dục ĐH là một quá trình để xác định đâu là chuẩn, đâu là điều kiện mà chúng ta phải phấn đấu, không phải là câu chuyện ngày một ngày hai. Các trường không thể tự nhận trường tốt, trường lớn mà được xã hội công nhận mà phải dựa vào đánh giá của các tổ chức kiểm định quốc tế.
Các tổ chức xếp hạng quốc tế luôn tồn tại độc lập và có một bộ tiêu chí riêng. Cho nên khi các trường tham gia vào xếp hạng thì kết quả là khách quan và công bằng. Đây là chuẩn chung được hệ thống giáo dục ĐH Thế giới công nhận, nên các trường ĐH của Việt Nam muốn hội nhập quốc tế, muốn được so sánh vị trí với các trường trên toàn cầu thì cần trải qua khâu kiểm định này là đương nhiên.
Thưa ông, những tiêu chuẩn cơ bản mà các trường ĐH của VN cần phấn đấu để đạt được ngưỡng hội nhập với giáo dục ĐH quốc tế là gì?
Hiện nay chúng ta mới có 2 ĐH đã được lọt vào top 1000 đại học tốt nhất là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ hạng này được các tổ chức quốc tế công nhận trên nhiều tiêu chí khác nhau nhưng cũng nằm trong các tiêu chí chung về: chương trình, phương pháp giảng dạy, cơ sở vật chất, công trình nghiên cứu khoa học, số bài báo...mỗi một tổ chức sẽ có những tiêu chí xếp hạng riêng. Cho nên đặt ra 2 vấn đề như sau:
Thứ nhất, đối với hội nhập quốc tế, khi chúng ta lọt vào các bảng xếp hạng lớn thì chúng ta phải tuân thủ luật chơi của tổ chức xếp hạng đó. Các trường ĐH phải xác định, định phấn đấu theo bảng xếp hạng nào thì cần cố gắng đạt được các tiêu chí xếp hạng của tổ chức đó.
Thứ hai, các tổ chức kiểm định trong nước cũng đang tiến hành đánh giá chất lượng giáo dục ĐH đối với các trường trên nhiều phương diện, mức độ: chương trình đào tạo, các đơn vị, khoa - trên các mặt, cơ sở vật chất, việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp... Chính câu chuyện kiểm định và xếp hạng sẽ giúp chúng ta có đánh giá chính xác về các trường ĐH theo hệ thống phân loại cụ thể.
Chính quá trình sàng lọc bên trong bản thân các trường không thật nghiêm khắc nên đã gây ra tình trạng lượng sinh viên "vào được là ra được".
Tiêu chuẩn quốc tế là thước đo sự phát triển các trường
Như vậy, có thể hiểu chúng ta đang khuyến khích các trường ĐH VN tham gia vào các bảng xếp hạng quốc tế. Điều này đang là minh chứng rõ nét nhất cho việc hội nhập quốc tế. Cách hiểu này có đúng không thưa ông ?
Tôi cho rằng đó cũng là cách hiểu đúng. Chúng ta đang đẩy mạnh chuẩn hóa và hội nhập quốc tế của giáo dục đại học nên khi các trường ĐH tuyên bố mình có chất lượng, uy tín, có trường mang đẳng cấp quốc tế thì phải có minh chứng cụ thể được thừa nhận.
Chúng tôi cho rằng khuyến khích các trường đại học căn cứ vào các yêu cầu của các bảng xếp hạng, các tổ chức mà chọn hướng đi rồi các tổ chức quốc tế sẽ đánh giá và khi đủ điều kiện họ sẽ đưa vào bảng xếp hạng của họ làm chuẩn cho chính bản thân các trường phát triển.
Điểm chuẩn đầu vào ĐH yêu cầu rất cao nhưng chất lượng đầu ra lại chưa đáp ứng được yêu cầu cho nguồn nhân lực của xã hội. Ông nhận xét như thế nào về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay?
Trong suy nghĩ bình thường của xã hội hiện nay, đã đỗ đại học thì đồng nghĩa sẽ tốt nghiệp được đại học. Đồng thời, trước đây chúng ta từng áp dụng mô hình đại học đại cương, trong quá trình đào tạo chia ra làm 2 giai đoạn: đào tạo kiến thức cơ bản và đào tạo kiến thức chuyên môn. Khi sinh viên hoàn thành qua được 2 giai đoạn sẽ được công nhận tốt nghiệp.
Nhưng trong xã hội vẫn chưa quen và cho rằng giai đoạn giáo dục đại cương không cần thiết, gây lãng phí, mất thời gian cho người học, bằng ĐH đại cương không có giá trị đối với thị trường lao động.
Từ sức ép của xã hội nên nhiều trường đã bỏ mô hình đào tạo này đi và tự đào tạo kiến thức cơ bản trong chương trình đào tạo của trường.
Khi vào được ĐH, sinh viên nào không thể đáp ứng được yêu cầu thì sẽ bị thôi học, nhưng trên thực tế thì cơ bản các sinh viên vẫn đủ điều kiện vượt qua. Chính quá trình sàng lọc bên trong bản thân các trường không thật nghiêm khắc nên đã gây ra tình trạng lượng sinh viên "vào được là ra được".
Nhưng sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp phản ánh cơ bản không đạt yêu cầu tuyển dụng, yếu về mặt kỹ năng, nghiệp vụ...
Đánh giá chung là chất lượng giáo dục đại học chưa tốt, sinh viên ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng. Một số nguyên nhân gây ra điều này là việc đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng đào tạo của nhiều trường ĐH còn rất chậm, cơ sở vật chất còn hạn chế, thậm chí nhiều trường vẫn sử dụng giáo trình cách đây hàng chục năm. Đồng thời, phương pháp giảng dạy của giảng viên và cơ sở vật chất yếu kém, đào tạo theo khả năng của mình có, không bám sát vào yêu cầu của thị trường lao động. Khoảng cách từ yêu cầu của xã hội tới chất lượng đào tạo còn rất lớn.
Không phải cuộc đua của những trường "giàu"
Có nhiều ý kiến cho rằng, cuộc chạy đua vào các bảng xếp hạng trên thế giới chỉ dành cho các trường "giàu". Vậy theo ông, liệu có phải chỉ những trường có điều kiện về vật chất tốt mới có thể bứt phá được trong đường đua hội nhập quốc tế hay không?
Theo tôi ý kiến như vậy là không chính xác, cũng không nên dùng trường đại học "giàu" mà dùng trường đại học mạnh sẽ đúng hơn. Các trường đại học luôn có sự khác biệt về uy tín, thương hiệu trường; quy mô và chất lượng đào tạo; quá trính hình thành, xây dựng, phát triển.
Trong khi đó, chúng ta cũng chưa có một đánh giá chung bắt buộc hay đồng loạt đối với các trường. Nhưng dư luận và xã hội vẫn luôn gọi đó là các trường top trên hoặc trong quản lý vẫn gọi là các trường trọng điểm.
Trong một hệ thống giáo dục ĐH, có trường mạnh, trường yếu, đó là điều hết sức bình thường. Bởi vì nó phụ thuộc vào lịch sử, truyền thống các lĩnh vực đào tạo; phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của giảng viên và nguồn lực đầu tư tài chính đến đâu. Cho nên việc xếp hạng các thứ bậc giữa các trường đại học là đương nhiên.
Từ sự đánh giá của xã hội cho thấy, những trường trọng điểm, trường top trên đó mới có đủ khả năng để đáp ứng các yêu cầu đánh giá quốc tế. Các trường đầu tàu sẽ mang sứ mệnh dẫn dắt các trường trong hệ thống cùng phát triển.
Từ thực tế giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, theo ông đâu là điểm vướng mắc của chúng ta trong câu chuyện chuyển hóa và hội nhập Quốc tế?
Đây là câu chuyện liên quan đến nhiều yếu tố, cụ thể:
Thứ nhất, về bản thân các trường khi đã xác định tham gia vào sân chơi quốc tế thì phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định chặt chẽ, cố gắng nỗ lực hơn để đạt được ngưỡng theo yêu cầu, theo luật chơi chung.
Thứ hai, về mặt thể chế, chúng ta sẽ phải tạo ra các cơ chế giúp các trường được tự chủ nhiều hơn, nhanh chóng hoàn thiện để đáp ứng được các yêu cầu chuẩn mực quốc tế.
Thứ ba, về đầu tư của Nhà nước, trong lúc các nguồn lực đầu tư của ta còn có hạn nhưng vẫn phải đầu tư cho giáo dục đại học, cần thiết nhà nước cần phân loại, giao nhiệm vụ để có những đầu tư trọng điểm, tập trung.
Kiểm định và xếp hạng đại học là yếu tố mang tính chuyên môn cao. Nếu những người không am hiểu hoặc không để ý thì rất khó lĩnh hội được đầy đủ thông tin. Nhưng khi chúng ta tham gia "cuộc chơi" nào thì chúng ta phải chấp nhận những "luật chơi" đó
Xin trân trọng cám ơn ông!
Hồng Hạnh - Hà Cường
Theo Dân trí
Sau năm 2020, 100% các trường THPT ở TPHCM tự chủ nhân sự Từ năm 2017 - 2020, TPHCM tiếp tục phân cấp trong tuyển dụng đối với các trường chuyên, năng khiếu và 24 trường THPT. Sau năm 2020, 1000% các trường THPT sẽ tự chủ về nhân sự. Tại hội nghị tổng kết năm học 2017-2018 và triển khai năm học 2018-2019 của TPHCM sáng 14/8, lãnh đạo Sở GD-ĐT TPHCM thông tin, đến...