Bóc tách triển vọng tăng giá của cổ phiếu ACB
Triển vọng tăng giá của cổ phiếu ACB có thể hấp dẫn nếu nhìn vào khía cạnh định giá dựa trên chỉ số P/E, nhưng lại không mấy sáng sủa nếu đi sâu vào khía cạnh triển vọng tăng trưởng lợi nhuận và tiềm năng tăng vốn.
Bóc tách triển vọng tăng giá của cổ phiếu ACB
Gần đây, một pháp nhân có trụ sở tại “thiên đường thuế” Cayman Islands đã mua toàn bộ 1.402 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp kỳ hạn 5 năm, lãi suất 20%/năm do Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại Hồng Hoàng phát hành.
Đáng chú ý là, Công ty Hồng Hoàng đã sử dụng gần 61 triệu cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Á châu (ACB) làm tài sản đảm bảo cho lượng trái phiếu doanh nghiệp trên.
Giới đầu tư nhìn nhận, thương vụ này rất có thể là cách để nhà đầu tư nước ngoài “lách” quy định về sở hữu nước ngoài (room ngoại), trong bối cảnh room ngoại của ngân hàng này luôn kín mức 30% – mức kịch trần theo quy định pháp luật, nghĩa là không thể nới thêm được nữa.
Theo đó, bề ngoài, pháp nhân nước ngoài chi 1.402 tỷ đồng mua trái phiếu doanh nghiệp nhưng thực chất là sở hữu gián tiếp gần 61 triệu cổ phiếu ACB trong vòng 5 năm.
Mức lãi suất 20%/năm cho thấy các bên kỳ vọng cổ phiếu ACB sẽ tăng ít nhất là gấp đôi sau 5 năm.
Tuy nhiên, còn một kỳ vọng khác là tại thời điểm đáo hạn trái phiếu, room ngoại tại ACB còn chỗ trống, đủ để pháp nhân nước ngoài nhận cổ phiếu để gán nợ, nghĩa là chuyển từ sở hữu gián tiếp sang sở hữu trực tiếp. Kịch bản này dễ xảy ra nếu như trong vòng 5 năm tới, Chính phủ quyết định nới room ngoại ngân hàng.
Dù là kỳ vọng nào, động thái trên cũng cho thấy nhà đầu tư nước ngoài đang đánh giá cao triển vọng của cổ phiếu ACB.
Bóc tách triển vọng cổ phiếu ACB
Định giá thấp là lý do đầu tiên mà đa số nhà đầu tư nhắc đến khi nói về triển vọng cổ phiếu ACB.
Với một ngân hàng đã giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu từ hơn hai năm trước khi đưa tỷ lệ nợ xấu (cả nợ xấu nội bảng và ngoại bảng tại VAMC) về dưới 1% giai đoạn 2017 – 9 tháng 2019, tỷ lệ bao phủ nợ xấu thuộc hàng cao nhất hệ thống (cuối năm 2017: 130%; cuối năm 2018: 150%; cuối tháng 9/2019: 159%) thì mức P/E 4 quý gần nhất chỉ khoảng 6,6 lần (so với bình quân ngành ở mức khoảng 12 lần) thực sự là một định giá thấp.
Bên cạnh định giá, một yếu tố cũng rất quan trọng trong đánh giá triển vọng cổ phiếu là triển vọng lợi nhuận tương lai.
Video đang HOT
ACB nổi tiếng là một ngân hàng đề cao sự an toàn, thể hiện ngay ở tỷ lệ nợ xấu cực thấp, tỷ lệ bao phủ nợ xấu rất cao, lãi dự thu cũng rất thấp.
Sự an toàn này còn thể hiện ở việc giữ tỷ trọng cho vay trung và dài hạn – có lãi suất cao hơn cho vay ngắn hạn – ổn định ở mức trên dưới 50% suốt giai đoạn 2011 – 9 tháng 2019. Đây là tỷ trọng thuộc hàng thấp trong hệ thống ngân hàng.
Ở mảng cho vay mua nhà – mảng kinh doanh rất “hot” trong vài năm trở lại đây, ACB cũng chỉ tập trung vào cho vay mua nhà thổ cư thay vì theo xu hướng cho vay mua nhà dự án như phần lớn các ngân hàng khác, nhằm giảm thiểu thấp nhất rủi ro. Trên thực tế, cho vay mua nhà thổ cư đã được ACB triển khai từ 20 năm trước.
Theo tiết lộ của ban lãnh đạo ACB tại hội nghị gặp gỡ nhà đầu tư diễn ra hồi tháng 7/2019, dư nợ cho vay mua, sửa nhà của ngân hàng này chiếm khoảng gần 35% tổng dư nợ cho vay bán lẻ (tương đương khoảng 45.500 tỷ đồng), nghĩa là bằng chưa đầy 20% tổng dư nợ cho vay, cho thấy ACB vẫn trung thành với danh mục cho vay ít rủi ro.
Việc theo đuổi danh mục cho vay ít rủi ro cũng đồng nghĩa khả năng nâng biên lợi nhuận ở mảng tín dụng của ACB hạn chế hơn.
Thêm vào đó, việc không có lợi thế trong cuộc đua tiền gửi không kỳ hạn (CASA), cùng với tỷ lệ đòn bẩy cao (tỷ lệ tổng tài sản/vốn chủ sở hữu của ACB ở mức cao trong hệ thống, khoảng 14 lần thời điểm cuối tháng 9/2019) cũng hạn chế khả năng nâng biện lợi nhuận mảng tín dụng thông qua việc giảm tỷ trọng chi phí vốn.
Việc theo đuổi danh mục cho vay ít rủi ro làm hạn chế khả năng nâng biên lợi nhuận mảng tín dụng của ACB so với các đối thủ
Trong bối cảnh việc nâng biên lợi nhuận mảng tín dụng đối diện với nhiều cánh cửa hẹp, động thái nới tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) từ mức 80% hiện nay lên mức 85% từ năm 2020 theo Thông tư 22/2019/TT-NHNN thực sự là một “món quà” từ Ngân hàng Nhà nước dành cho các ngân hàng tư nhân nói chung và ACB nói riêng.
Trên thực tế, tỷ lệ LDR của ACB cuối năm 2018 ở mức 77% – đã sát ngưỡng 80%, khiến ngân hàng này không còn dư địa đáng kể để tăng biên lợi nhuận mảng tín dụng thông qua nâng tỷ lệ LDR. Với thông tư mới, ACB có thêm 5 điểm% dư địa.
Tuy nhiên, nhìn chung, triển vọng nâng biên lợi nhuận mảng tín dụng của ACB không cao về trung và dài hạn nếu như ngân hàng này vẫn trung thành với danh mục cho vay ít rủi ro, trong khi tăng trưởng lợi nhuận mảng tín dụng bị “cào bằng” bởi hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm, đồng nghĩa ACB có phần thua thiệt so với các ngân hàng khác khi xét về triển vọng lợi nhuận ở mảng tín dụng. Trong khi tín dụng vẫn luôn là trụ cột chính của ngân hàng này.
Tăng trưởng lợi nhuận hạn chế hơn nhưng đi kèm với rủi ro thấp là một sự đánh đổi công bằng so với mô hình tăng trưởng nhanh nhưng rủi ro cao, bởi rủi ro cao thì chi phí dự phòng cũng cao, bào mòn đáng kể lợi nhuận.
Dù vậy, với trường hợp của ACB, chi phí dự phòng đã ở mức rất thấp, 9 tháng năm 2019 chỉ dự phòng 161 tỷ đồng, nghĩa là chưa đầy 3% lợi nhuận thuần, cho thấy ngân hàng này gần như không còn dư địa để giảm chi phí dự phòng.
Trong khi đó, không dễ để giảm tốc độ tăng của chi phí hoạt động, nhất là trong giai đoạn ACB vẫn phải đầu tư nhiều vào công nghệ (trung bình khoảng 25 – 30 triệu USD mỗi năm theo tiết lộ của ban lãnh đạo ACB). Thêm nữa, ACB còn đang có kế hoạch xây dựng tòa nhà hoặc campus như là một biểu trưng mới của ngân hàng này, cũng khiến khả năng cắt giảm chi phí hạn chế đi.
Trong bối cảnh như vậy, nếu không chấp nhận danh mục cho vay rủi ro cao hơn kèm biên lợi nhuận cao hơn, mảng tín dụng sẽ không thể trở thành động lực giúp ACB tăng trưởng lợi nhuận ở mức cao hơn các đối thủ trong những năm tới.
Hợp đồng bancassurance (phân phối bảo hiểm qua ngân hàng) độc quyền có thể coi là điểm sáng hiếm hoi trong triển vọng tăng trưởng lợi nhuận của ACB.
Ban lãnh đạo ngân hàng này từng cho biết chủ trương của HĐQT ACB là hợp tác với đối tác bảo hiểm hiện nay và thời gian tới sẽ hợp tác với một đối tác nữa. Trong hai đối tác đó sẽ xem xét nhiều khía cạnh để mở độc quyền bằng phương thức đấu giá.
Nếu hoàn tất hợp đồng bancassurance độc quyền, ACB có thể nhận khoản tiền ứng trước lớn, cùng với đó là thu nhập từ phí hàng năm.
Bên cạnh định giá và triển vọng lợi nhuận, còn một yếu tố khác nữa cũng ảnh hưởng đến triển vọng tăng giá của cổ phiếu ACB là tiềm năng tăng vốn.
Mặc dù hệ số an toàn vốn (CAR) của ACB đang ở mức khá (cuối tháng 6/2019, CAR riêng lẻ ở mức 9,48% và CAR hợp nhất ở mức 10,26% theo chuẩn Basel II, cao hơn tương đối đáng kể so với ngưỡng tối thiểu 8%) nhưng ngân hàng này gần như không còn dư địa tăng vốn bằng cách phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài do room ngoại luôn kín ở mức kịch trần 30%.
Trong khi đó, phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư trong nước cũng khó thực hiện do có thể ảnh hưởng lớn đến cán cân quyền lực tại ngân hàng này.
Minh Tâm
Theo Vietnamfinance.vn
Ngân hàng Nhà nước "nóng ruột", muốn sử dụng ngân sách để tăng vốn cho "big 4" ngân hàng
Theo Ngân hàng Nhà nước, tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các NHTM Nhà nước là khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II. Vì vậy, NHNN đề xuất sửa các quy định theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước.
Trong báo cáo vừa gửi Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước đã nêu nhiều khó khăn trong việc tăng vốn cho 4 ông lớn ngân hàng quốc doanh (Agribank, Vietinbank, Vietcombank và BIDV). Ngân hàng Nhà nước đề xuất dùng ngân sách để tăng vốn nhằm giải quyết những khó khăn của các ngân hàng này trong bối cảnh mới.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, trên cơ sở các giải pháp quy định tại Đề án 1058 và thực trạng hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), NHNN chỉ đạo quyết liệt các TCTD hoàn thiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu.
Đến nay, năng lực tài chính của các TCTD tiếp tục được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm. Tính đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 591,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,57% so với cuối năm 2018 và tăng 15,5% so với cuối năm 2017.
Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 856,1 nghìn tỷ đồng, tăng 12,3% so với cuối năm 2018 và 29,7% so với cuối năm 2017. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) ở mức 11,9%.
Tổng tài sản của hệ thống các TCTD đạt 11,81 triệu tỷ đồng tăng 6,7% so với năm 2018 và tăng 18,8% so với cuối năm 2017.
Các NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các TCTD. Đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của 4 NHTM Nhà nước (Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV) đạt 139 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cuối năm 2018; tổng tài sản đạt 5.081 nghìn tỷ đồng, tăng 5,29% so với cuối năm 2018, chiếm 43,01% toàn hệ thống; cho vay thị trường 1 đạt 3.652 nghìn tỷ đồng, chiếm 47,9% toàn hệ thống.
Các NHTM Nhà nước đang gặp khó trong bài toán tăng vốn để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II
Tuy nhiên, theo NHNN việc mở rộng tín dụng của các NHTM Nhà nước đang bị hạn chế do phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong điều kiện vốn điều lệ của các ngân hàng này chậm tăng trưởng, đặc biệt là đối với Agribank và Vietinbank.
Việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ của NHTM Nhà nước nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài chính tiền tệ thời gian qua gặp nhiều khó khăn. Tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các NHTM Nhà nước là khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II trong khi nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các ngân hàng này cũng hết sức hạn chế.
Từ thực tế hiện nay, NHNN đề xuất Chính phủ kiến nghị Quốc hội sửa Nghị quyết số 25/2016/QH14, Nghị quyết số 26/2016/QH14, Nghị quyết số 1023/NQ-UBTVQH13 hoặc ban hành một Nghị quyết mới theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước.
Đồng thời, chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp và tham gia hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của các TCTD, đặc biệt là Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến phương án tăng vốn của các NHTM Nhà nước.
Trước đó, tại Hội nghị sơ kết 2 năm triển khai Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Quyết định 1058 của Thủ tướng về phê duyệt đề án tái cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, NHNN đã kiến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu phối hợp với Bộ KH&ĐT tháo gỡ vướng mắc về pháp lý để tăng vốn điều lệ cho NHTM Nhà nước.
Về phía các ngân hàng, ông Phạm Toàn Vượng, Phó Tổng giám đốc Agribank cũng cho biết, mặc dù chủ động phát hành trái phiếu để bổ sung vốn cấp 2 nhưng hiện tại đã gần quy định tối đa. Nếu không được bổ sung cấp bách, những tháng đầu năm 2020, Agribank không thể tiếp tục đầu tư tín dụng cho nền kinh tế do vướng vào tỷ lệ an toàn theo Basel 2.
Ông Phạm Quang Dũng, Thành viên HĐQT, Tổng Giám đốc Vietcombank kiến nghị các cơ quan quản lý tạo điều kiện cho NHTM nhà nước tăng vốn điều lệ bằng lợi nhuận sau thuế, thặng dư vốn cổ phần và được phát hành thêm. Có cơ chế thu hút đầu tư nước ngoài, tăng giới hạn của nhà đầu tư nước ngoài.
Hà Loan
Theo anninhthudo.vn
Cổ phiếu cần quan tâm ngày 3/7 Báo Đầu tư Chứng khoán trích báo cáo phân tích một số cổ phiếu cần quan tâm trước phiên 3/7 của các công ty chứng khoán. Khuyến nghị mua dành cho KBC với giá mục tiêu 16.700 đồng/CP CTCK Bản Việt (VCSC) Chúng tôi ước tính tổng doanh thu sợ bộ 6 tháng 2019 của Tổng công ty Đầu tư Phát triển Đô...