Bộ chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật
Tại Khoản 3 Điều 27 Luật người khuyết tật qui định “Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia” va giao Bô GD&ĐT “Quy định chuẩn quốc gia về ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi Braille cho người khuyết tật” tai khoan b, muc 3, Điêu 50, Luât Người khuyết tật.
Thực hiện quyền giáo dục đối với người khuyết tật, Chính phủ đã kí quyết định 1019/QĐ-TTg về việc “Phê duyệt đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020 với hoạt động cụ thể về trợ giúp tiếp cận giáo dục cho người khuyết tật “Nghiên cứu xây dựng và phổ biến hệ thống ký hiệu ngôn ngữ phổ thông sử dụng thống nhất trong toàn quốc; xây dựng tài liệu ký hiệu ngôn ngữ cho các cấp học phổ thông.” Để tiếp tục thúc đẩy và tăng cường quyền của người khuyết tật theo Công ước của Liên hợp quốc, Chính phủ tiếp tục kí quyết định 1100/QĐ-TTg về việc “Phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật” trong đó có nội dung “Nghiên cứu xây dựng và phổ biến hệ thống ký hiệu ngôn ngữ phổ thông sử dụng thống nhất trong toàn quốc. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tài liệu kí hiệu ngôn ngữ cho các cấp học phổ thông.”
Thực hiện chủ trương giáo dục người khuyết tật của Đảng và Nhà nước, ngày 30 tháng 1 năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Kế hoạch giáo dục người khuyết tật giai đoạn 2018 – 2020 của ngành giáo dục”, trong đó có nhiệm vụ “Biên soạn hệ thống ngôn ngữ ký hiệu phổ thông và chữ nổi Braille thống nhất sử dụng trong các cơ sở giáo dục.” Để thực hiện nhiệm vụ này, nguyên Thứ trưởng, Trưởng ban BCĐ GDTKT&TECHCKK – Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa phê duyệt công văn số 367/KH-BGDĐT ngày 30 tháng 5 năm 2018, giao Vụ Giáo dục Tiểu học là đầu mối và phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, các Cục, Vụ chức năng khác Xây dựng Thông tư Quy định chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật trong các cơ sở giáo dục.
Trong bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu tổng quan về ngôn ngữ kí hiệu Việt Namvà ý nghĩa của nó với người khuyết tật và cộng đồng nhằm giúp các nhà quản lý, giáo viên, các tổ chức, cá nhân quan tâm hiểu hơn về ngôn ngữ kí hiệu, tạo một môi trường bình đẳng, hòa nhập của người khuyết tật Việt Nam.
Giới thiệu về ngôn ngữ kí hiệu
Ngôn ngữ kí hiệu được tu sĩ Juan Pablo Bonet sử dụng dạy học cho người khiếm thính từ những năm 1620 tại Tây Ban Nha. Đến năm 1755 tu sĩ người Pháp, Charles Michel Albe de L’epee đã gặp những người Điếc lớn tuổi để học hỏi cách sử dụng ngôn ngữ kí hiệu tự nhiên. Sau đó Ông đã làm dấu theo trật tự ngôn ngữ nói trong quá trình dạy học cho học sinh điếc của mình. Phương pháp này tiếp tục được phát triển bởi học trò của ông là R.A Sicard. Đến đầu thế kỉ 19, Thomas Hopkin Gallaudetđa dạy học người Điếc theo cach làm dấu theo trật tự ngôn ngữ nói tai Mỹ. Đến những năm 1960, William Stokoe và các cộng đa nghiên cứu và khẳng định: ngôn ngữ kí hiệu là một ngôn ngữ riêng, có quy luật, đặc tính riêng. Cho đên nay hâu hêt cac trương hoc danh cho tre Điêc va khiêm thinh trên Thê giơi đa sư dung ngôn ngữ kí hiệu như loai hinh ngôn ngữ chinh trong day hoc.
Ở Việt Nam, linh mục Azemar người Pháp đa mơ trường học đầu tiên dành cho trẻ điếc năm 1886 tai Lai Thiêu, Thuân An, Binh Dương. Ở đây cả ngôn ngữ kí hiệu vầ ngôn ngữ nói trong dạy học cho trẻ điếc đa đươc sư dung. Đến những năm 90, ngôn ngữ kí hiệu được quan tâm nhiều hơn trong dạy học cho trẻ điếc. Trước nhu cầu đó, tư nhưng năm 1995, Trung tâm giáo dục tre co tật học, nay là Trung tâm Giáo dục đặc biệt Quốc gia được sự hỗ trợ của các tổ chức PSBI,World Concern, RADA BARNEN, CRS,… đã tiến hành thu thập khoảng 1700 kí hiệu tương đối giống nhau được sử dụng trong cộng đồng người Điếc ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Quang Binh, thành phố Hồ Chí Minh, Đa Năng, Lâm Đông, Binh Dương, Đồng Nai, Nghệ An,…. Các nghiên cứu, khảo sát sau đó cũng chỉ ra rằng chỉ có dươi 30% số kí hiệu hoàn toàn giống nhau, 46% gần giống nhau và 24% số kí hiệu khác nhau. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho việc dạy học cho học sinh điếc, học sinh khiêm thinh trong các cơ sở giáo dục có sử dụng ngôn ngữ kí hiệu. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kí hiệu của người Điếc cũng luôn đươc phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, giao tiếp, lao động của họ.
Ngôn ngữ kí hiệu của mỗi nước đều khác nhau, nhưng lại có chung 5 thành tố cơ bản đó là: (1) Vị trí làm kí hiệu (Location); (2) Hình dạng bàn tay (Handshape); (3) Chuyển động của tay (Movement); (4) Chiều hướng của lòng bàn tay (Orientation) va (5) Sự diễn tả không bằng tay (Non-manual expression).
Đồng thời, ngôn ngữ kí hiệu cũng có cấu trúc ngữ pháp riêng, không giống như ngữ pháp của ngôn ngữ nói. Ví dụ:
Ngôn ngữ nói – Ngôn ngữ kí hiệu
Tôi ăn táo. —-> Tôi/ táo/ ăn.
Ai nghỉ học hôm nay? —-> Hôm nay/ nghỉ học/ ai?
Tôi không ăn táo. —-> Tôi/ táo/ ăn/ không.
Năm 2019, Bộ chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật đã bước đầu thống nhất được 408 kí hiệu cơ bản đang trong quá trình lấy ý kiến nhằm thống nhất sử dụng trong các cơ sở giáo dục trên toàn quốc.Chúng tôi rất mong tiếp tục nhận được sự đồng thuận của cộng đồng người Điếc để tiếp tục thống nhất, tạo điều kiện cho người khuyết tật nói chung, người khiếm thính nói riêng có đủ lượng kí hiệu cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và hòa nhập cộng đồng.
Ý nghĩa của Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật
Theo báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật Việt Nam năm 2016 của Tổng cục thống kê với sự hỗ trợ kĩ thuật của Unicef, Việt Nam có 2,83% trẻ em khuyết tật trong độ tuổi 2 – 17, trong đó trẻ em khiếm thính chiêm ti lê 0,22% trên tông dân sô, tương đương khoảng 211,000 trẻ em (ước tính theo số liệu thống kê điều tra dân số Việt Nam 2017). Như vậy có thể thấy được nhu cầu rất lớn về việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu trong giáo dục trẻ khiếm thính ở các cơ sở giáo dục. Bộ chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu ra đời sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu dạy và học cho học sinh khiếm thính, nhằm đảm bảo quyền và cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho các em.
Ngôn ngữ kí hiệu được “nghe” bằng mắt nên tận dụng được khả năng vượt trội về thị giác, khắc phục các khó khăn về nghe nên sẽ giúp học sinh khiếm tính thuận lợi trong việc tiếp cận, lĩnh hội thông tin và kiến thức. Bởi vậy, Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu là căn cứ thống nhất để các cơ sở giáo dục sử dụng trong quá trình dạy và học cho học sinh khiếm thính. Đồng thời, Bộ Chuẩn cũng sẽ là cơ sở để các nhà chuyên môn thống nhất sử dụng các kí hiệu trong quá trình xây dựng học liệu trong giáo dục trẻ khiếm thính, đáp ứng nhu cầu dạy và học trong thời kì công nghệ 4.0.
Video đang HOT
Bộ Chuẩn ra đời góp phần phổ biến ngôn ngữ kí hiệu trong cộng đồng, giúp cho các lực lượng khác trong xã hội dễ dàng tiếp cận với ngôn ngữ kí hiệu và sẵn sàng tham gia, hỗ trợ giáo dục trẻ khiếm thính.
Như vậy có thể khẳng định, Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu ra đời là cơ sở nền tang bước đầu, tao điều kiện cần thiết để trẻ khiếm thính nói riêng, người khuyết tật nói chung tiếp cận, tham gia giáo dục bình đẳng và có chất lượng.
Trung tâm Giáo dục đặc biệt Quốc gia, Viên Khoa hoc Giáo dục Viêt Nam
Theo giaoducthoidai
4 người trẻ khuyết tật tài năng vượt lũy tre làng, vươn ra thế giới
Trần Tôn Trung Sơn, Lê Bá Ninh, Phan Thị Rát, Trần Mạnh Chánh Quân đều sinh ra với cơ thể không lành lặn nhưng những người trẻ khuyết tật tài năng Việt này quyết không ngã lòng trước thực tế phũ phàng.
Họ vượt khó, chăm chỉ với nghị lực, niềm tin cháy bỏng và lòng chân thành thay đổi số phận và vượt khỏi lũy tre làng, vươn mình ra thế giới...
Trần Tôn Trung Sơn - cậu bé khuyết tật vô gia cư tới ĐH Harvard
Trần Tôn Trung Sơn sinh năm 1992 trong một gia đình nông thôn nghèo cạnh sông Bến Hải (Quảng Trị) với cánh tay trái ngắn và teo lại, bàn tay phải chỉ có hai ngón.
Từ một đứa trẻ không lành lặn bị người đời hắt hủi đến cảnh sống lang thang màn trời chiếu đất chốn công viên, giờ đây, cậu bé ấy đã trưởng thành và vẫn đang tiếp tục viết nên những điều kỳ diệu nơi trời Tây.
Ngày Sơn ra đời, gia đình không ai cầm được nước mắt vì những khuyết tật trên thân thể cậu con trai bé bỏng và lời dị nghị của hàng xóm vì hình hài khác thường của Sơn. Nuốt nước mắt vào trong, bố mẹ Sơn quyết định rời làng vào Nam với hi vọng mong manh mảnh đất ấy sẽ cưu mang đứa con xấu số của họ.
Bảy năm sau, anh chị mới dành dụm đủ tiền để thuê một phòng trọ nhỏ cho 3 người có chỗ "chui ra chui vào". Rồi vợ chồng anh chị nghĩ đến việc xin cho con đi học, nhưng ngặt nỗi, chẳng có trường học nào chị nhận một cậu bé khuyết tật.
Không nản chí đi gõ cửa từng trường, cuối cùng sự nỗ lực của anh Sơn đã khiến cô hiệu trưởng trường tiểu học Vạn Hạnh xúc động. Cô đồng ý nhận Sơn vào học.
Trần Tôn Trung Sơn và bố mẹ hồi bé.
Không phụ lòng cha mẹ, Sơn càng lớn càng thông minh. Năm lớp 5, em là một trong 5 học sinh xuất sắc nhất Quận Tân Bình, thủ khoa khi thi vào lớp chuyên Anh Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa, đậu vào Trường phổ thông Năng khiếu của Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và trở thành học sinh xuất sắc của trường.
Năm 2010, sau khi học xong lớp 11, Sơn nhận được học bổng 2 năm lớp 11 và 12 tại Trường trung học Fairmont (Mỹ). Đồng thời chàng trai trẻ cũng tham gia rất nhiều hoạt động thiện nguyện tại châu Phi, dạy học cho trẻ em nghèo, gây quỹ giúp đỡ người vô gia cư...
Bài luận văn với tựa đề "Nhìn đời qua bàn tay" của Trung Sơn khi nộp đơn vào ĐH Harvard danh tiếng đã khiến các giáo sư bật khóc và chàng trai nhỏ bé ấy đã nhận được học bổng toàn phần của trường với ngành công nghệ thông tin.
Năm 2016, Sơn nộp hồ sơ vào Tập đoàn IBM và trở thành cố vấn của tập đoàn. Vượt qua hàng ngàn ứng viên, cậu bé khuyết tật ấy đã trở thành một trong 8 người xuất sắc nhất đáp ứng yêu cầu khắt khe của 4 hội đồng chuyên môn. Tháng 12/2017, Sơn được thăng chức trở thành quản lý vùng, làm việc tại Atlanta, bang Georgia (Mỹ).
Phan Thị Rát - cô gái khuyết tật giành học bổng Chính phủ Úc
Sinh ra trong một gia đình nghèo tại xã Phước Diêm, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, Phan Thị Rát và hai chị em của cô bị yếu chân tay từ nhỏ.
Đa số việc cầm, nắm, di chuyển của Rát gặp rất nhiều khó khăn. Con đường học tập của cô vô cùng vất vả, có những lúc tưởng chừng phải từ bỏ ước mơ đi học cao hơn.
Từ Tiểu học, Rát tự mình đi được trong khoảng cách gần. Lên THCS, trường cách nhà khoảng 5km, người thân, gia đình, bạn bè thay nhau chở Rát đi học ròng rã suốt 4 năm.
Rát kể những năm tháng HS, em thậm chí không dám nhìn thẳng vào mắt người khác. Cơ thể khiếm khuyết khiến người con gái của biển mặc cảm, xa lánh bạn bè và hay khóc.
Học hết lớp 12, Rát băn khoăn không biết nên tiếp tục học hay như thế nào. "Em nhớ câu nói của ba: Thôi cứ cố gắng học, ra đời sẽ có xã hội giúp", Rát chia sẻ.
Những ngày mới vào TPHCM trọ học với Rát là cuộc chiến thực sự. Xa người thân, bạn bè, bản tính lại nhút nhát nên cô chẳng dám mở miệng nhờ ai giúp. Từ đi chợ, giặt quần áo đến nấu ăn, đón xe buýt, Rát đều gồng người tự làm.
Năm 2011, trong khoảng thời gian học tại Trường ĐH Mở TPHCM, nhận học bổng Người bạn đồng hành của Trung tâm Khuyết tật và Phát triển (DRD), Rát đã "cho lại" bằng cách dạy kèm các em nhỏ đồng cảnh ngộ ở Nhà May Mắn (quận Bình Tân, TPHCM).
Phan Thị Rát nhận học bổng toàn phần của Chính phủ Úc đi du học năm 2013.
Niềm vui đi học được bạn bè thầy cô yêu quý giúp đỡ, Phan Thị Rát đã hoàn thành 4 năm học ĐH, đi làm và tiếp tục con đường chinh phục tri thức. Năm 2013, Phan Thị Rát là 1 trong 12 người khuyết tật tiêu biểu Việt Nam được vinh dự gặp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Làm việc tại Trung tâm Khuyết tật và Phát triển DRD, Rát được truyền cảm hứng từ các đồng nghiệp đã từng du học với Học bổng chính phủ Australia. Được sự trợ giúp nhiệt tình của các anh chị, Rát đã nộp hồ sơ rất thuận lợi.
Do gặp khó khăn về tiếng Anh, Rát được chương trình cho đi học ngoại ngữ tại Trường ĐH RMIT trong vòng 3 tháng để có thể đủ điểm du học tại Trường ĐH Flinders (Australia). Học bổng với người khuyết tật nặng như Rát được hỗ trợ thêm một người đi cùng chăm sóc, hỗ trợ sinh hoạt hàng ngày.
Nhớ lại giây phút biết tin học bổng chính phủ Australia, Rát kể lúc đó như vỡ òa hạnh phúc. Sự công nhận này khiến cô gái khuyết tật thấy mình có động lực hơn, có giá trị hơn, cảm thấy nếu được tạo cơ hội, người khuyết tật cũng có thể đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội.
Hành trang tinh thần mang theo khi du học của Rát là những lời động viên gia đình, bạn bè và những kỳ vọng về tương lai.
Lê Bá Ninh - cậu học trò giành học bổng tiền tỷ nhờ bài luận một con mắt giả
Lê Bá Ninh (Thanh Hóa) đã xuất sắc giành suất học bổng 5 tỷ đồng của Đại học Soka (Mỹ), sau khi đưa câu chuyện con mắt giả của chính mình vào bài luận.
Cậu học trò đạt các điểm chuẩn hóa cao: SAT 1 1500/1600, SAT 2 thi hai môn Sử Mỹ được 720/800 và Toán 2 được 790/800, IELTS 8.0. Với những thành tích này, Ninh nhận được gói học bổng Global Merit Scholarship, Đại học Soka và mỗi năm chỉ trao cho một số rất ít học sinh trong một khóa.
Ninh chỉ còn một con mắt bình thường, còn một con mắt, ngày em lên 3, do bị cao giác mạc nên phải bỏ và thay thế vào bằng một con mắt giả.
Từ những trải nghiệm của bản thân, em viết một bài luận cá nhân về hành trình của bản thân, cũng như về cái nhìn sai lệch của nhiều người khác đối với người khuyết tật.
Sự thương hại tưởng chừng vô hại nhưng trên thực tế lại có thể khiến cho việc hòa nhập cộng đồng của em trở nên khó khăn hơn. Chính bài luận ấy đã ghi dấu ấn cá nhân sâu sắc cho Ninh.
Và dù là một chàng trai chỉ "nhìn đời bằng một con mắt", nhưng Ninh luôn lạc quan, yêu đời, yêu người. Ngay từ khi còn học tập tại Trường THPT chuyên Lam Sơn, Ninh đã tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa như: đại biểu Hội nghị mô phỏng Liên Hợp Quốc VYMUN 2017, là thành viên của câu lạc bộ tiếng Anh và trang nội san của trường có tên Ga Lam Sơn. Ninh là đồng sáng lập dự án Gõ Kiến (một dự án về môi trường mà cụ thể là thực trạng biến đổi khí hậu).
Trần Mạnh Chánh Quân - "người hùng" thầm lặng trên đất Mỹ
Chân không đi được, tay bất lực, miệng nói không rõ chữ, một mình với chiếc xe lăn, Trần Mạnh Chánh Quân (sinh năm 1992) vẫn tự tin vươn ra thế giới và hơn thế, chàng trai quê Vũng Tàu còn trở thành "Người hùng thầm lặng" truyền cảm hứng mạnh mẽ tại Mỹ.
Trần Mạnh Chánh Quân tiến vào lễ đường ngày nhận bằng tốt nghiệp ĐH Georgia Gwinnett, Mỹ.
Mắc hội chứng bại não bẩm sinh, ban đầu bố mẹ không muốn cho Quân tới trường, nhưng ngay từ ngày nhỏ Quân đã bộc lộ tính cầu tiến và hòa nhập. Bất lực trong việc điều khiển tay, chân theo ý mình, không thể giao tiếp với thế giới theo cách bình thường như bao người nhưng Quân không đầu hàng.
Lớp 6, Quân được ba mẹ trang bị một máy tính xách tay để thuận tiện việc chép bài ở lớp. Tay phải bị liệt hoàn toàn, Quân bắt mẹ trói chân mình lại để tập đánh may bằng tay cử động của 3 ngón trên bàn tay trái.
Đam mê Tin học, Quân xuất sắc giành nhiều giải HSG Tin học cấp tỉnh và cấp quốc gia. Lớp 9, cậu thi đỗ vào trường chuyên của tỉnh Vũng Tàu với số điểm môn chuyên gần như tuyệt đối rồi một mình lên thành phố trọ học.
Với những nỗ lực vượt bậc và thành tích xuất sắc, tốt nghiệp cấp 3, Quân được trường Utica college ở New York (Mỹ) bảo lãnh sang học. Năm 2013, Quân được trường Georgia Gwinnett College (Mỹ) cấp học bổng 50%.
Chàng du học sinh người Việt là gương mặt sinh viên sáng giá ở trường, được chọn tham gia các cuộc thi của Hiệp hội Chuyên ngành Công nghệ thông tin (AITP).
Tháng 11/2016, "gã khổng lồ" Google từng gọi Quân nộp hồ sơ dự tuyển nhân viên làm việc toàn thời gian. 9X cũng giành được thứ hạng cao tại nhiều cuộc thi AITP, NCC, ACM... Sau 4 năm miệt mài học tập, Quân đã cầm trên tay bằng tốt nghiệp đại học 2 chuyên ngành yêu thích.
Hành trình vươn mình ra thế giới và khẳng định trí tuệ, nhân cách sống của chàng trai Việt mắc hội chứng bại não đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh cho không ít người Mỹ, nhất là các bạn trẻ.
Đó là lí do Trần Mạnh Chánh Quân vinh dự được trường Đại học Georgia Gwinnett (GGC) bang Georgia, Mỹ trao danh hiệu "Unsung hero" (Người hùng thầm lặng) vào ngày 20/4/2017.
Theo Tiền phong
Nâng cao chất lượng mô hình giáo dục học sinh rối loạn phát triển Theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm thần, có thể chia rối loạn phát triển gồm 6 nhóm: Khuyết tật trí tuệ, rối loạn giao tiếp, rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn tăng động và giảm chú ý, rối loạn học tập đặc thù, rối loạn vận động. Với mong muốn tất cả trẻ rối loạn phát...