Bỏ chấm điểm lớp 1: HS có được giảm tải?
Năm học mới đã bắt đầu được gần 2 tháng, song đến nay Sở GD&ĐT Hà Nội mới có hướng dẫn về cách cho điểm đối với học sinh lớp 1. Phương án thay chấm điểm bằng đánh giá, nhận xét… được nhiều người đồng tình nhằm giảm tải cho học sinh.
Tuy nhiên, học sinh có thực sự được giảm tải và giáo viên có khách quan… là những vấn đề được các bậc phụ huynh quan tâm.
Mừng nhưng vẫn lo
Cùng với chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Hà Nội cũng vừa ban hành hướng dẫn tạm thời việc đánh giá đối với học sinh lớp 1 trong năm học 2013 – 2014. Cụ thể, giáo viên lớp 1 ở Hà Nội sẽ không cho điểm mà đánh giá, nhận xét riêng từng học sinh nhằm góp phần giảm áp lực tâm lý cho học sinh và phụ huynh.
Theo ghi nhận của PV Báo GĐ&XH, quy định mới của Sở GD&ĐT Hà Nội được nhiều phụ huynh đồng tình, hưởng ứng. Phụ huynh Trần Thu Hà có con học lớp 1, Trường tiểu học Dịch Vọng B (quận Cầu Giấy) cho biết: “Khi được nhà trường phổ biến về cách đánh giá không cho điểm học sinh lớp 1, tôi thấy rất vui mừng. Các cháu vào học lớp 1, mới ở giai đoạn làm quen với chữ và số, chính từ chuyện điểm số mà trước đây nhiều gia đình đã cho con đi học trước, rồi căng thẳng mỗi khi con bị điểm thấp, vô tình tạo áp lực cho con trẻ”.
Năm học 2013-2014, học sinh lớp 1 ở Hà Nội sẽ được đánh giá dựa trên kết quả nhật xét và điểm kiểm tra định kỳ. Ảnh: Q.Huy
Tuy nhiên, không ít phụ huynh cũng tỏ ra khá lo lắng. Phụ huynh Trần Thị Huyền, có con học lớp 1, Trường tiểu học Đặng Trần Côn A (quận Thanh Xuân) cho rằng: “Việc xét học lực của con dựa trên những nhận xét trong sổ của giáo viên, kết hợp với bài kiểm tra học kỳ khiến tôi chưa thực sự yên tâm. Bình thường con học tốt, giáo viên không cho điểm, nhưng nếu làm bài kiểm tra học kỳ chẳng may con làm không tốt, liệu con có được đánh giá là học sinh có học lực tốt? Hơn nữa, cách đánh giá của giáo viên có thực sự chuẩn xác, bởi nhiều nơi sĩ số lớp học đông, giáo viên dễ đánh giá theo cảm tính, chung chung”.
Vở viết của học sinh lớp 1 tại Hà Nội, giáo viên chỉ chữa và nhận xét cho học sinh. Ảnh: Q.Huy
Còn phụ huynh Nguyễn Đức Huy (quận Long Biên) lại cho rằng: “Không chấm điểm, chỉ dựa vào đánh giá của cô giáo, quả thực tôi khó nắm được con mình học hành thế nào. Bởi tôi không thể đưa ra cách đánh giá riêng với học lực của con, ví dụ như khi con làm toán, viết chữ sai bao nhiều lỗi thì đáng cảnh báo…”.
Giáo viên thêm áp lực?
Video đang HOT
Chủ trương không chấm điểm học sinh lớp 1 đã được thực hiện ở nhiều trường tại Hà Nội ngay từ đầu năm học này. Trường tiểu học Bình Minh (quận Hoàn Kiếm) đã áp dụng thay vì cho điểm số, giáo viên sẽ phát những bông hoa màu đỏ, xanh tương ứng với bài làm tốt, khá của học sinh. Học sinh chưa làm được bài, giáo viên sẽ hướng dẫn và khuyến khích, động viên học sinh trong giờ học sau. Cách làm này đã nhận được sự hào hứng học tập của học sinh. Tuy nhiên, nhà trường lại gặp khó khăn riêng, bởi theo bà Lê Thanh Hà – Phó hiệu trưởng nhà trường: “ Bỏ chấm điểm cũng có thể dẫn tới việc buông lỏng chất lượng. Trường cũng cảm thấy khó trong việc đánh giá chất lượng giáo viên, để thúc đẩy giáo viên công tác tốt hơn”.
Trường tiểu học Đông Xuân (huyện Sóc Sơn) cũng đã áp dụng việc không chấm điểm cho học sinh lớp 1 từ đầu năm học. Theo đánh giá của bà Đoàn Thị Mai – Hiệu trưởng nhà trường, quy định mới của Sở GD&ĐT sẽ trút bỏ áp lực cho cả phụ huynh lẫn học sinh về điểm số. Tuy nhiên, bà Mai cho rằng: “Việc này cũng đòi hỏi phụ huynh phải quan tâm nhiều hơn đến con, thường xuyên trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em mình. Giáo viên sẽ phải quan tâm hơn đến từng học sinh, bố trí thêm thời gian làm nhận xét cho từng học sinh và thường xuyên phúc đáp cho phụ huynh”.
Nói về quy định đánh giá đối với học sinh lớp 1, ông Phạm Xuân Tiến – Trưởng phòng Giáo dục tiểu học (Sở GD&ĐT Hà Nội) cho biết, không cho điểm thường xuyên ở lớp 1 trong cả năm học là phù hợp, không nên tạo cho trẻ áp lực hay động lực bằng điểm số. “Giáo viên sẽ không vất vả hơn vì trước đây vẫn vừa chấm chữa, chấm điểm và nhận xét. Bây giờ nhận xét chủ yếu bằng lời. Trên lớp, giáo viên có thể nhận xét chung và nhấn mạnh những lỗi học sinh dễ mắc phải, biểu dương những bài làm tốt, học sinh có tiến bộ chứ không phê bình hay so sánh”, ông Tiến cho biết thêm.Theo đánh giá của nhiều phụ huynh, giáo viên, việc bỏ cho điểm đối với học sinh lớp 1 là phương thức mới, có hiệu ứng tốt đối với tâm lý của học sinh. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn, bất cập khi triển khai là cách nhận xét của giáo viên với học sinh có khách quan không, khi mà sĩ số lớp đông và giáo viên còn bị chi phối bởi “bệnh thành tích” vẫn nặng nề ở nhiều trường học?
“Hướng dẫn đánh giá đối với học sinh lớp 1 năm học 2013-2014 của Sở GD&ĐT Hà Nội nhằm mục đích góp phần đổi mới cách đánh giá kết quả học tập phù hợp với học sinh. Khuyến khích học sinh học tập, ghi nhận sự tiến bộ hàng ngày để động viên, giúp đỡ học sinh cảm thấy tự tin và tích cực học tập. Góp phần giảm áp lực tâm lý cho học sinh và phụ huynh học sinh. Giáo viên tuyệt đối không so sánh giữa các học sinh, chê trách học sinh trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ động cơ nào”. Ông Nguyễn Hữu Độ _ Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội
Theo TNO
Những sai sót 'trầm kha' trong sách Tiếng Việt lớp 1
Khi bộ sách Tiếng Việt lớp 1 được phát hành cách đây 10 năm, sau một loạt ý kiến của công luận, chủ biên Đặng Thị Lanh đã phát biểu ghi nhận chính thức trên VTV, đồng thời đại diện của Bộ GD-ĐT cũng hứa hẹn sẽ xem xét hiệu đính ngay trong lần tái bản thứ nhất.
Thế rồi, thời gian cứ trôi qua, hằng năm sách vẫn được tái bản, các sai sót vẫn không được chỉnh sửa chút nào.
Sau khi bộ sách được tái bản mười lần, chúng tôi lại cố gắng đọc kỹ từng trang để cuối cùng thở dài ngán ngẩm, bởi những sai sót từ những ngày đầu xuất bản vẫn được giữ nguyên.
1. Về việc viết hoa, tôi cho rằng không nên đợi đến bài 28 mới dạy cho các cháu học chữ viết hoa, mà hãy đưa ngay bảng chữ cái ở đầu sách, sau đó vào từng bài kết cấu chữ viết hoa song song với chữ viết thường, như thế sẽ không bị khiên cưỡng khi phải viết tên riêng.
Trong tập một, suốt 27 bài học vỡ lòng, tên người đều viết thường (dì na, bé hà, chị kha, bé nga...), mãi đến bài 28 trở đi mới viết hoa tên người, liệu các cháu có đủ nhận thức để sửa đổi hay lại theo quán tính để sau này sinh ra tính tùy tiện?
Từ bài 28 trở đi, tên các con vật bắt đầu được viết hoa, nhưng không nhất quán, có chỗ viết hoa, chỗ viết thường, thậm chí cùng một loài vật trong cùng một trang cũng bất nhất (ví dụ: ở trang 67, hình 1: "Bói Cá", hình 2: "bói cá") và tương tự ở các trang 81, 87, 89, 97, 99... Tên cảnh vật cũng thế (ví dụ: trang 70: đồi núi; trang 71: Đồi núi; trang 114: con đường; trang 115: Đồng ruộng; trang 126: đống rơm; trang 127: Bữa cơm...).
Ở tập hai, chữ viết thường, viết hoa cũng tùy tiện, chẳng có sự nhất quán, không riêng gì từ bài 1đến bài 27. Trong suốt tập hai này, tên các con vật khi thì viết thường (tép, cua, hoẵng, nai, gà mái, chim chào mào, cò...), khi thì viết hoa (Tép, Sóc Bông, Gà Trống, Rùa, Thỏ, Sư Tử...), thậm chí trong cùng một trang nhưng viết 2 cách (trang 17, H1: tép, cua, H2: Tép), đôi khi còn dùng dấu gạch nối tùy tiện (trang 81: Chuột-Nhắt) và cũng không theo quy tắc số ít số nhiều.
Ban biên tập sách cho rằng trong câu "Buổi trưa, Cừu chạy theo mẹ... Nó thấy bầy hươu nai..." Cừu là số ít nên viết hoa. Đây là cách nghĩ không theo chuẩn chính tả và cũng không biết căn cứ vào quy định nào, trong khi quyết định 07/2003/QĐ-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo về cách viết hoa tên riêng trong sách giáo khoa cũng chỉ quy định viết hoa tên con vật, sự vật khi nó được nhân cách hóa (ví dụ: chú Gấu, cô Thỏ, bác Nồi Đồng...).
Theo tôi, những sai sót này góp phần gây nên tính tùy tiện cho các cháu. Và như thế, chúng ta đã bỏ qua phương châm "dạy người" trong sách giáo khoa.
2. Về việc chú thích hình ảnh, ngoài thứ tự tùy tiện như đã nêu, nhiều hình được chú thích không logic, mơ hồ, dễ gây nhầm tưởng cho các cháu.
Chẳng hạn như ở tập một trang 23: hình ảnh được chú thích bờ hồ thì các cháu ở TP Hà Nội có thể chẳng suy tư gì, nhưng các cháu ở nhiều tỉnh thành khác sẽ băn khoăn khi học hình ảnh này vì nó có khác gì bờ sông đâu?
Bờ hồ chẳng khác bờ sông.
Trang 33, hình 1 được chú thích "bố thả cá mè, bé thả cá cờ" thì làm sao để nhận dạng và phân biệt được 2 loại cá đó trong hình.
Trang 37: hình ảnh chùa Một Cột được chú thích "thủ đô", các cháu sẽ nghĩ gì về hình tượng một thủ đô của đất nước ta?
Đây là chùa Một Cột.
Trang 113: hình 2 chú thích "Ao, hồ, giếng" nhưng trong hình chỉ có 2 loại vật thể. Như vậy, tác giả muốn các cháu hiểu ao đồng nghĩa với hồ hay sao? Mà nếu thế thì không thể dùng dấu phẩy đồng đẳng như trong trang hiện hành.
3. Về việc dùng từ, có nhiều trường hợp thiếu chuẩn xác:
Trang 75, tập một, hình 2 được chú thích "Chạy, bay, đi bộ, đi xe đạp". Theo tôi, trong cùng một hình, những động từ chỉ hành động cũng phải đồng nhất về đối tượng, nếu phải hơi khiên cưỡng thì ứng với hành động "bay" là con chim còn chấp nhận được sao lại dùng hình chiếc máy bay? Nếu vẫn dùng hình chiếc máy bay thì phải ghi chú là "đi máy bay" mới logic.
Chú thích không logic.
Trang 41, tập hai, hình 2 được chú thích "Đèn dầu, đèn điện, đèn huỳnh quang". Dùng từ "đèn điện" để phân biệt với từ "đèn huỳnh quang" là không chuẩn xác vì đèn huỳnh quang cũng là đèn điện mà. Hơn thế nữa trong bài tập điền vần ở trang 93/tập hai thì hình ảnh cây "đèn điện" này lại được ghi là "đ... bàn"? Rõ ràng sách đã làm rối khái niệm của từ ngữ.
4. Tùy tiện gọi tên động vật: Trang 89/tập hai: hình 2 được chú thích "Cá mực nướng rất thơm". Các cháu học cá mực ở lớp 1, nhưng lên các lớp trên chẳng bao giờ có "cá mực" vì đây không phải là một loài cá, các tài liệu động vật học trong cả nước đều gọi tên là "mực"? Không hiểu ban biên tập sử dụng Từ điển tiếng Việt nào?
Nếu cho rằng do các cháu chưa học vần "ốc" nên chú thích hình ở trang 97 tập một là "Sên", tôi cho rằng cách trả lời này không thuyết phục, vì sên và ốc sên là hai loài khác nhau. Tôi nghĩ là nên ghi nhận ý kiến này và trong lần tái bản tới đây có thể thay con ốc sên trong hình vẽ bằng con nhện chẳng hạn.
5. Lỗi chính tả do ngọng âm: Trang 95/tập 2: sách ghi "xoong canh", trong khi từ chuẩn cả nước dùng là "soong"?
6. Dùng câu thiếu bổ ngữ, sai động từ: Câu "bé bị ho, mẹ cho bé ra y tế xã" ở trang 55/tập một nên sửa lại "bé bị ho, mẹ bế bé ra trạm y tế xã". Cách trả lời của nhà xuất bản không thuyết phục, vì ngay trên hình vẽ đã có chữ TRẠM Y TẾ rồi. Về vấn đề này chúng ta cũng phải có chính kiến sư phạm, không thể vì đối phó tình huống mà vấy vào bộ não trong trắng các cháu một mẫu câu sai. Nếu ban biên tập vẫn bảo lưu ý kiến thì theo tôi nên thay hình vẽ để có câu chú thích khác không bị gò bó bởi âm chưa học.
Đầu óc các cháu lớp 1 như trang giấy trắng, những gì được ấn vào rồi sau này khó gột tẩy, sửa đổi.
Thiết nghĩ Bộ Giáo dục và đào tạo nên sớm xem xét nghiêm túc để có hướng chỉnh sửa, đừng để những sai sót đó trở thành bệnh trầm kha trong bộ sách đầu lòng của các cháu như thời gian vừa qua.
Theo Tuoitre
Thổi xôi là gì? Tôi xin nêu ra một ví dụ: "Bà nội thổi xôi". Ngày xưa, thời bao cấp không có gas và bếp điện nên mọi người nấu cơm canh... bằng cách nhóm lửa rồi thổi cho lửa bùng vào than hay củi nên nấu gì cũng hay gọi là "thổi" (thổi cơm, thổi canh, thổi xôi). Đúng thứ tự Ngày nay đa số dùng...