Bi hài chuyện dạy chữ ở những điểm trường heo hút
Ở những điểm trường hun hút tại Mường Tè, nơi “Giáo viên nếu không vì hoàn cảnh quá khó khăn, không bao giờ lại nhận đến dạy học ở những nơi ấy”, vẫn có những tình yêu, tình người đẹp.
Những cô giáo miền xuôi
Cô Nguyễn Thu Oanh (42 tuổi) ở điểm trường Lò Ma Trường TH Ka Lăng được các giáo viên coi là đàn chị. Cô vốn là giáo viên ở Thái Bình, dạy hợp đồng 7 năm vẫn chưa được vào biên chế, chồng bị tai nạn chết. Năm 2005, bất đắc dĩ, cô đưa cậu con trai 5 tuổi xung phong lên Mường Tèdạy học.
Chuyến đi đầu nhận lớp, hai mẹ con cô đã chết hụt vì cái xe khách “từ thế chiến thứ nhất” mất phanh 2 lần lao xuống suối. Lần đầu, chị còn nhảy ra được, lần sau “kệ”, tết về để lại con ở Thái Bình gửi bà ngoại. Cậu bé nay đã học lớp 7, nhưng ký ức về chuyến đi cháu vẫn nhớ, hỏi có lên với mẹ không là lắc đầu.
Các thầy cô trong ban giám hiệu nhà trường ái ngại muốn chuyển cô về điểm gần, cô bảo “khổ cho khổ luôn, thôi để các cô giáo có con nhỏ ở trung tâm, đỡ cho các cháu”. Ở điểm bản, cô Oanh trồng rau, chăn nuôi, cố “tự cung tự cấp” để dành tiền gửi về cho hai bà cháu.
Đợt năm 2008, tôi vào Bắc Ka Lăng, gặp liền một lúc 3 cô giáo trẻ: Đinh Thị Thanh Huyền, Đinh Thị Ngọc, Lê Thị Vân, quê ở Hà Tĩnh, Phú Thọ theo tiếng gọi của “cái sự khó” mà lên Mường Tè dạy học. Đi đã xác định rằng khổ mà “không ngờ khổ đến thế”, khóc suốt. Khổ vì những ngày đi bộ đằng đẵng, khổ vì không chỉ dạy học sinh, mà còn cả “trông em học sinh”, có lúc lớp cô Vân 7 học sinh, thêm 7 đứa em thành 14, một đứa khóc, cả bọn khóc theo.
Khổ cả vì ruồi vàng, bọ chó, cái giống ấy cũng thích các cô giáo trẻ hay sao mà “tấn công ghê lắm”. Đến ăn cơm cũng phải chui vào màn, đứng lớp cũng phải tất chân, tất tay như người… đang ở cữ.
Thầy giáo Lò Văn Xanh – người đã lập nhiều “kỷ lục” cùng lớp học mầm non của mình ở điểm trường Nhóm Pó.
Cô Huyền dạy ở Nhóm Pó có lần phải “đền” cậu học sinh chỉ vì “ai biết nó không mặc quần”. Cậu học sinh của cô lớp 2 rồi, mặc cái áo của bố trùm đến đầu gối… khỏi cần quần. Ghế ngồi ghép bằng thanh tre ẽo ợt, cậu học sinh bị tre kẹp “chim”, ngọ ngoạy mãi không dám kêu. Cô giáo bắt ngồi yên, đến lúc đau quá òa khóc, cô Huyền mới biết, nó đã sưng vù lên rồi. Cô giáo trẻ đành phải thuốc men chữa “đền”.
Video đang HOT
Vào lại Bắc Ka Lăng, cô Ngọc, cô Vân đã chuyển đi, chỉ gặp cô Huyền, hỏi cô còn thấy khổ không, cô bảo “vẫn thế, cái khổ mãi không quen được”. Cô Huyền khổ cũng không chuyển đi vì có “nợ” một thầy giáo ở vùng đất này rồi, phải ở lại.
Chuyện tình trên con đường chữ
Cô Huyền ở lại vùng đất này cũng bởi dính vào “tay cửu vạn lỳ bậc nhất”. Thầy giáo trẻ Lê Hoài Phương ngày ấy xung phong vác đồ cho cô. Thầy Phương dạy ở Tá Bạ, cứ thứ 7 lại về Nậm Lằn mua đồ cho mình, cho cô Huyền và cõng về Tá Bạ để hôm sau Chủ nhật, cõng đồ lên Nhóm Pó… rồi lại về trong ngày.
Chặng đường đi về thường mất 4 ngày, thầy Phương chỉ giải quyết trong 2 ngày, tuần nào cũng vậy. Có lần không biết vì vội việc hay tại ở chơi quá thời gian, thầy phải “chạy” từ Nhóm Pó về Tá Bạ mất 2,5 giờ, lập kỷ lục trong trường về thời gian đi trên cung đường khủng khiếp ấy. “Mất gần 1 năm mới gật đấy” – thầy Phương tủm tỉm cười, rồi bảo: “Mà có lẽ cô giáo “nợ” tiền công cõng hàng nhiều quá mới gật để… khỏi phải trả”.
Đợt ấy, các thầy cô ở điểm trường Nhóm Pó được uống bia. Để “báo cáo tổ chức”, thầy Phương chất lên vai mình thêm két bia. Cái món đồ uống “xa xỉ” ấy hình như lần đầu được mang vào cả két ở Nhóm Pó như thế. Đám cưới của cặp đôi Phương – Huyền có thể gọi là sang trong vùng vì được cả nhà trường và đồn Biên phòng Ka Lăng – đơn vị kết nghĩa, đồng tổ chức. Năm ngoái, cặp vợ chồnggiáo viên ấy đã dựng được ngôi nhà gỗ thuộc loại “nhất bản” ở Tá Bạ để thực sự định cư trên vùng đất này.
Xóm giáo viên ở Tá Bạ mới đây thêm 2 gia đình mới, thầy Lý – cô Lành và thầy Xanh – cô Hình. Hai cặp đôi này khác, họ đều yêu nhau từ thời còn đi học sư phạm, cùng giống nhau ở chỗ… nghèo. Quyết lấy nhau chỉ có cách… trình bày hoàn cảnh, cùng xung phong đến nơi khó khăn nhất: Bản Nhóm Pó ở Bắc Ka Lăng. Thầy Xanh – cô Hình cưới nhau trước khi nhận lớp. Ngày đi Nhóm Pó, hai cặp vợ chồng cưới và chưa cưới dắt díu nhau đi. Hai đấng mày râu chất toàn bộ đồ đoàn lên vai, đỡ hai cô giáo trẻ lên đường trong mưa tầm tã.
Thầy Xanh trong chuyến đi ấy, ngoài việc lập kỷ lục vì bị vắt cắn nhiều nhất, mang nặng nhất còn thêm một kỷ lục khác, chắc không ai dám phá là đưa người vợ trẻ đang mang thai đi Nhóm Pó an toàn, dù mình ngã “không đếm được”. Hai cặp vợ chồng trẻ này cũng đã xin được đất chuẩn bị dựng nhà để định cư lâu dài ở Tá Bạ.
Theo Dân Việt
Đường chữ qua rừng đói
Giữa đại ngàn, cuối trời Tây Bắc có những con đường chỉ có giáo viên đi, người ta gọi ấy là đường chữ.
Trên con đường chữ có nước mắt, nụ cười và cả tình yêu đôi lứa, nuôi cho dòng chữ chảy về các bản nghèo, nơi chỉ có hai mùa no - đói...
Sướng vì còn một nửa cái khổ
Giáo viên ở vùng Bắc Ka Lăng nay là xã Tá Bạ, huyện Mường Tè (Lai Châu) bảo chúng tôi: "Bây giờ sướng nhiều rồi". Sướng vì đã có con đường mới mở vào đến bản Tá Bạ, trung tâm xã. Con đường dù đi phải thủ thêm bộ dây xích quấn vào bánh xe chống trượt, cũng bớt được 1 ngày đi bộ, "sức không bị kiệt".
Các thầy giáo ở Trường dân tộc bán trú xã Tá Bạ trên đường đến điểm trường Nhóm Pó
Một ngày đầu tháng 9/2012, khởi hành từ bản Tá Bạ, chúng tôi cùng các thầy giáo đi Nhóm Pó, Vạ Pù, hưởng cái sự "sướng lắm". Trang bị đi bản mà như đi thám hiểm, mang tất cả mọi thứ, quần áo, tất chân phải cẩn thận, chặng đường này cũng là vương quốc của ruồi vàng và vắt.
Sau một ngày đến bản Nhóm Pó, tôi đếm mình bị 19 nốt vắt cắn, vẫn thua xa "kỷ lục" của thầy giáo Lò Văn Xanh lập tháng 9/2011, với 51 vết vắt cắn.
Bản Nhóm Pó của 42 hộ dân người La Hủ, thậm chí khó có thể dùng từ nghèo. Nếu không có những mái tôn do Nhà nước hỗ trợ, liệu những ngôi nhà ấy có thể gọi là cái gì cho đúng. Mấy ngôi nhà đã nghiêng hẳn, người ta không dựng lại mà lấy cây chống, chắc đợi bao giờ sập, dựng lại luôn cho ... bõ công.
Ra khỏi bản Tá Bạ bắt đầu leo núi, ngọn núi ngửa mặt trông lên, mệt, mấy lần muốn đứt hơi mới lên tới đỉnh, trập trùng núi trước mặt. Thầy Chu Chu Cà chỉ về ngọn núi xa tít: Nhóm Pó ở đó, bên phải cách đó... ít ngọn núi đến Vạ Pù.
Tụt dốc, bắt đầu chặng đường rẽ cây đi, đang giữa mùa mưa, cỏ gianh, lau, cành cây phủ kín lối. Không đủ sức phạt cây, nhiều đoạn mấy anh em tôi bò trong rừng. Bò xuống cứ quay đầu mà tụt, chân người sau đạp mặt người trước, vắt theo tay mà lên vào nách, vào ngực. Lúc nghỉ theo vết máu trên áo mà lần, thấy sản phẩm ngay.
Lúc đầu còn sợ, sau quen cứ tóm chú vắt ngoe nguẩy để cười. Gần nửa chặng đường đi Nhóm Pó phải lần theo lòng suối, không có một dấu vết nhỏ của con đường, tôi đã hiểu tại sao các giáo viên chuẩn bị kỹ thế.
Chặng này mà gặp lũ, thoát mất mạng thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ có ngủ rừng. Hơn 4 giờ chiều, chúng tôi ở trên đỉnh ngọn Cây Trúc, lần đầu tiên thấy dấu hiệu có người: Lá cờ của tổ Biên phòng đóng ở bản Nhóm Pó. Tôi và anh bạn đồng nghiệp ngồi bệt xuống đất, gân cốt nhũn ra. Thầy Lò Văn Vinh bảo lần đầu vào điểm trường này, đi một mình, đến lúc nhìn thấy lá cờ là bật khóc.
Thêm một ngày đường để đến bản Vạ Pù, một ngày đường nữa để trở về Tá Bạ. Cả 3 ngày đi đường, chúng tôi không gặp một người dân nào, tuyến đường ấy hình như chỉ có giáo viên và Bộ đội Biên phòng đi. Hơn năm nay tuyến đường có thêm các em học sinh THCS từ hai bản về trường ở Tá Bạ học bán trú, mấy anh Bộ đội Biên phòng bảo tuyến đường ấy có thể đặt tên là: Đường Chữ.
Đội cửu vạn giáo viên
Các bản ở Tá Bạ, cái có thể mua được có lẽ chỉ là măng, các thứ khác từ gạo, thực phẩm, đồ dùng, sách vở của cả giáo viên và học sinh đều phải gùi vào. Tiền thuê gùi 17.000 đồng/kg, tính mỗi thầy cô tháng cần 30kg đồ thì tiền thuê hết tiền lương.
Thuê thì "còn đâu tiền mua đồ", đành tự mình làm cửu vạn cho mình. Chúng tôi đi, các thầy mang hộ ba lô mà bao lần muốn gục xuống, hỏi các thầy sao khỏe vậy, thầy Cà bảo "quen, với lại chúng em mang thêm 15 cân cũng chỉ nặng bằng các anh thôi". Quả thật "đội" các thầy không thấy ai beo béo một chút, cỡ làng nhàng trên dưới 50 ký.
Kỷ lục mang nặng là thầy Lò Văn Xanh, chuyến lập kỷ lục của thầy cũng là chuyến kỷ lục bị vắt cắn. Thầy cõng 35 kg hàng, vừa đi vừa đỡ vợ, cô giáo Đao Thị Hình. Có thầy giáo thú thật: "Cõng hàng nặng quá đứng khóc dưới trời mưa một mình".
Chuyện làm cửu vạn của các cô giáo thì thật quả trăm đường cơ cực. Mỗi chuyến là một lần lựa, san sẻ cho đồng nghiệp nam cõng giùm, về bản nhận thổi cơm, rửa bát, giặt quần áo trả nợ. Khôn nhất có lẽ là tóm ngay lấy một thầy làm chân "cửu vạn chung thân" cho mình.
Cô Bùi Thị Cúc - giáo viên mầm non ở Nhóm Pó năm 2011, đã có chồng con rồi, không tìm được cửu vạn chung thân, chuyến đầu thuê gùi 2 triệu đồng, xót tiền quá đành tự cõng, mỗi tuần một chuyến 8-9 kg. Hỏi cô Cúc đã bao giờ phải khóc giữa đường vì cõng hàng chưa, cô lắc đầu bảo "nhiều khi muốn khóc lắm, nhưng giữa rừng khóc... ai nghe".
Năm học này, các điểm trường quá sâu và xa, ở Tá Bạ, nhà trường không phân giáo viên nữ cắm bản nữa, chặng đường cửu vạn của các cô bớt đi được nhiều. Với các thầy cũng bớt một ít ở cái phần "san sẻ" của các cô, nhưng cũng buồn. Cả điểm trường như Nhóm Pó, 7 giáo viên mà toàn là đàn ông, kể cả 2 giáo viên mầm non.
Theo dân việt
"Chuồng học" ở Huổi Chát Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở huyện nghèo Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, ngày hội khai giảng đã đến gần, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng. Một căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy bàn long, ủn ỉn trong đó một cặp lợn mán,...