Bảy lý do khiến nhiều trường áp dụng cách dạy của GS Hồ Ngọc Đại
Toàn bộ bài học đã quét hết các tiếng có trong Tiếng Việt, kể cả tiếng có vần ít gặp và khó đọc, như: quàu quàu, quều quào, chuếnh choáng…
Cô giáo Hoàng Thị Minh Thuận (Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nam Đàn, Nghệ An) chia sẻ những lý do khiến nhà trường áp dụng chương trình Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1 của giáo sư Hồ Ngọc Đại.
Chương trình Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1 được đưa vào Trường Tiểu học Nam Anh (Nam Đàn, Nghệ An) từ trước năm 2000. Thời điểm đó huyện Nam Đàn có 3 trường tiểu học thực hiện là Làng Sen, Hoàng Trù và trường thị trấn.
Đến năm 2000, thực hiện thay sách, Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1 được thay bằng chương trình tiếng Việt hiện hành. Tuy nhiên, Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1 vẫn đồng hành ở một số địa phương.
Học sinh Nam Đàn học theo sách của GS Hồ Ngọc Đại.
Với nhiều ưu điểm nội trội, chương trình vẫn được các trường, các tỉnh thành chọn dạy trở lại sau năm 2007. Năm học 2013-2014, có 43 tỉnh thành tự nguyện tham gia dạy chương trình này, trong đó có Nghệ An. Tại huyện Nam Đàn, có 4 trường tiểu học tham gia là Làng Sen, Hoàng Trù, Thị trấn, Lê Hồng Sơn.
Sau nhiều năm chỉ đạo thực hiện dạy học và đặc biệt may mắn được nghe GS Hồ Ngọc Đại trực tiếp trao đổi, chia sẻ những quan điểm về Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1, tôi càng nhận thấy rõ tính ưu việt của chương trình. Tôi xin chia sẻ những cảm nhận đó cùng đồng nghiệp và phụ huynh.Thứ nhất là quan điểm. Theo GS Hồ Ngọc Đại, trẻ con ngày nay được sống trong điều kiện hiện đại, thay vì ăn no mặc ấm là ăn ngon mặc đẹp, thay vì ở nhà tranh vách đất là nhà kiên cố, cao tầng, có phòng lạnh, đi xe máy, ôtô… Không cớ gì tất cả đều hiện đại mà đến trường các em lại phải sở hữu công cụ học cũ rích. Sự hiện đại trong khoa học và công nghệ mà các em được tiếp nhận đó là chương trình Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1.
Thứ hai là mục tiêu của chương trình tiến bộ hơn nhiều so với hiện hành. GS Hồ Ngọc Đại đặt ra ba mục tiêu: đọc thông viết thạo, viết đúng chính tả và không bao giờ tái mù (nếu nghe được thì nhắc lại được, viết ra được và đọc được). Học sinh nắm vững cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt và luật chính tả để viết không sai. Các em được phát triển tư duy khoa học theo các việc làm bằng sức lao động và sản phẩm của mình.
Thứ ba là đặc điểm của Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1. Về tính khoa học của chương trình, tất cả nội dung kiến thức là thành tựu về ngữ âm tiếng Việt được đưa vào nhẹ nhàng, vật liệu đơn giản, dễ làm. Chương trình phát triển có hệ thống và vững chắc bắt đầu từ tiếng, âm, vần, từ, câu, đoạn (không làm việc 1 thì không làm được việc 2… ), tạo nên sự kiểm soát của giáo viên và học sinh. Giáo viên làm chu đáo, cẩn thận sẽ cho ra sản phẩm đồng loạt, đều và đẹp.
Về tính phân hóa của chương trình, học sinh tiến bộ với chính mình, có yêu cầu cơ bản và yêu cầu nâng cao, không có sản phẩm bị rơi rớt hoặc bỏ qua. Điểm nổi bật của chương trình này là tính vững chắc, học sinh học đâu biết đấy, học đâu chắc đấy và cảm thấy hạnh phúc trong quá trình học.
Thứ tư là quy trình dạy học của Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1 rất rõ ràng, thể hiện ở 4 việc. Việc 1 là chiếm lĩnh ngữ âm. Việc 2 là hình thành kỹ năng viết. Việc 3 là đọc (kết quả của việc 1 và 2) và việc 4 là đọc lại (tổng hợp lại việc 1, 2, 3). Kiến thức, kỹ năng luôn được củng cố một cách chắc chắn trong từng việc của tiết học. Sự vững chắc đạt được nhờ hai yếu tố: giải quyết dứt điểm (từng đơn vị học) và nhắc lại thường xuyên, nhắc lại khi có cơ hội.
Thứ năm là kỹ thuật dạy học của Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1. Giáo viên giao việc, học sinh nhận việc; giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc để các em tự chiếm lĩnh kiến thức, chứ không làm trước, làm hộ. Giáo viên chỉnh sửa cho học sinh và học sinh chỉnh sửa cho nhau. Các lệnh của giáo viên đều được thay thế bằng mã hóa ký hiệu nên giờ dạy rất nhẹ nhàng, có tính khoa học và hiện đại. Bản chất của công nghệ giáo dục là quản lý quá trình tự học. Trẻ tự làm ra sản phẩm của trẻ và từ đó phát triển sự tự tin.Thứ sáu là nội dung các bài học của Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1 rất ưu việt. Tôi chỉ liệt kê ra 3 điểm. Đó là toàn bộ bài học trong sách giáo khoa đã quét hết tất cả các tiếng có trong Tiếng Việt, kể cả tiếng có vần ít gặp và khó đọc mà trước đây chương trình hiện hành không đưa vào (ví dụ quàu quàu, quều quào, chuếnh choáng…).
Mỗi bài học các em được học rất nhiều tiếng và từ. Ví dụ khi dạy bài ênh, êch, các em sẽ được học và tự chiếm lĩnh hết tất các tiếng có chứa hai vần đó (khác với chương trình hiện hành các em chỉ học vần, các từ khóa và từ ứng dụng). Ngoài ra, học sinh còn nắm được luật chính tả vần êch chỉ có dấu thanh sắc, thạnh nặng đi kèm.
Nội dung bài đọc đa dạng, phong phú về thể loại, kiểu bài phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, tạo được sự hứng thú cho các em. Ví dụ bài Bé xách đỡ mẹ; Cáo và quạ… Ngoài ra, tác giả còn bước đầu muốn bồi dưỡng sớm cho các em tình yêu quê hương đất nước, lòng tự tôn tự hào về nòi giống và truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua các bài đọc về lịch sử như bài: Các vua Hùng, Bà Triệu, chiến thắng Bạch Đằng…
Thứ bảy là kết quả đạt được của Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1. Học sinh được làm việc theo một trình tự khoa học có tính hiệu quả, nghiêm túc và kỷ luật. Các em được làm việc nhiều, làm thế nào, nói thế ấy; làm được nói được và nói được làm được. Các kỹ năng hợp tác, chia sẻ, đánh giá được phát triển. Học sinh đọc tốt, viết tốt, nắm chắc luật chính tả và cấu tạo âm tiết Tiếng Việt. Học chương trình này thấy rõ học sinh nhanh nhẹn, năng động và hứng thú.
Với bảy lý do trên, trường tôi đã tiếp nhận và thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, năm đầu tiên thực hiện sẽ gặp nhiều khó khăn, tôi xin mách nhỏ cùng các bạn đồng nghiệp mấy điểm lưu ý khi thực hiện chương trình:
- Làm mẫu chính xác.
- Tận dụng triệt để các ký hiệu và tín hiệu trên lớp.
- Thường xuyên kiểm soát cá nhân và phân hóa cá nhân học sinh.
- Đánh giá, nhận xét học sinh bằng mục đích vì sự tiến bộ và sản phẩm làm ra của các em.
- Giáo viên phải nắm chắc cấu trúc ngữ âm và luật chính tả.
- Nhất thiết làm đúng thiết kế của GS Hồ Ngọc Đại vì ông đã trực tiếp thiết kế và giảng dạy chương trình này suốt 35 năm.
Video đang HOT
Nếu giáo viên kiên trì thực hiện thì chỉ sau một năm các bạn sẽ rất nhẹ nhàng và “khoái” chương trình này. Về quan điểm cá nhân, tôi ấn tượng nhất quan điểm giáo dục trẻ của GS Hồ Ngọc Đại là “phải để trẻ em làm việc hết sức nhưng không để làm quá sức”.
Cuối tháng 8, video cô giáo hướng dẫn cách phát âm chữ cái c/k/q đều đọc là /cờ/ gây xôn xao dư luận vì khác phương pháp được dạy đại trà cho học sinh. Cách đánh vần đó là theo sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục do GS Hồ Ngọc Đại làm chủ biên và Bộ Giáo dục cho phát hành.
Chủ tịch Hội đồng quốc gia thẩm định cuốn Tiếng Việt Công nghệ Giáo dục – PGS Bùi Mạnh Hùng cho biết, tài liệu gây tranh cãi, tuy nhiên thực tế cho thấy phương pháp dạy đánh vần trong đó đã giúp học sinh phát triển khá hiệu quả kỹ năng đọc thành tiếng và viết đúng chính tả. Đến nay gần 50 tỉnh, thành phố với khoảng 800.000 học sinh đang dùng cuốn sách này.
GS Hồ Ngọc Đại chia sẻ sách được xây dựng trên nguyên tắc “muốn học cái gì thì phải tự tay làm cái đấy”. Khi áp dụng, học sinh sẽ là người làm việc, còn giáo viên chỉ giao nhiệm vụ và quan sát, hướng dẫn phương pháp. Ông tự tin sách của mình tồn tại vĩnh viễn, nền giáo dục mình xây dựng là đúng đắn vì có nền tảng lý thuyết là triết học, tâm lý học, có công nghệ giáo dục hỗ trợ.
Theo infonet.vn
Bộ Giáo dục nên dừng o bế Giáo sư Đại, chấm dứt lấy ngân sách làm sách giáo khoa
Giáo sư Hồ Ngọc Đại và cộng sự dùng ngân sách làm đề tài nghiên cứu, kết quả của nó thuộc sở hữu nhà nước. Tiền bán sách có phải thu hồi nộp ngân sách?
Trong bài viết trước, chúng tôi đã phân tích vai trò "sân sau, sân trước" của Vụ Giáo dục tiểu học, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc giúp Giáo sư Hồ Ngọc Đại triển khai thí điểm các tài liệu công nghệ giáo dục mà ông dẫn đầu nghiên cứu.
Tiếp theo, chúng tôi xin được phân tích những ưu ái bất thường của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho Giáo sư Hồ Ngọc Đại, dẫn đến những bất công với các nhà khoa học khác.
Tiền tỷ bán sách đi về đâu?
Trong một cuộc phỏng vấn về Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, biên tập viên truyền hình Thông tấn xã Việt Nam đặt câu hỏi với Giáo sư Hồ Ngọc Đại, rằng:
"Xin hỏi một câu là thầy có nhận tiền bản quyền tác giả không?"
Ảnh chụp màn hình phóng sự của đài VTV9 về Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Giáo sư Hồ Ngọc Đại trả lời:
"Từ hôm làm việc với anh Luận thì tôi tặng cho Bộ đấy, Bộ muốn làm gì thì làm. Bởi vì thế này này, khi Bộ nắm bản quyền của sách này, nắm chắc thì Bộ có thể mạnh tay hơn.
Nói miệng với nhau, thân tình, nhưng sau đó có làm thủ tục, và tôi phải làm giấy cam đoan là tôi biếu không.
Thực ra là thế này, lợi ích của mình là cái gì? Là trẻ con. Lợi ích của trẻ con là hạnh phúc lớn nhất mà không gì hơn." [1]
Theo lẽ thường, đã "tặng" cho Bộ Giáo dục và Đào tạo "muốn làm gì thì làm", thì Giáo sư Hồ Ngọc Đại có nên cho phép mọc ra một công ty tư nhân chuyên bán Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục và các tài liệu kèm theo khác cho học sinh?
Đã "tặng" cho Bộ Giáo dục và Đào tạo rồi, thì tiền bán sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục có được nộp vào ngân sách?
3 cuốn Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục có giá tổng cộng 35.500 đồng. Nhưng Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đang giới thiệu 1 bộ "trọn gói" đến cha mẹ học sinh thông qua các sở, phòng và nhà trường có giá tổng cộng 472.000 đồng.
Nhân với 800 ngàn học sinh đang học tài liệu công nghệ giáo dục, thì doanh thu cao nhất có thể lên tới 377,6 tỷ đồng mỗi năm.
Tất cả chảy về Công ty Cổ phần đầu tư phát triển trường trung học phổ thông công nghệ giáo dục như hướng dẫn của một công văn Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển ký.
Có quan chức, cựu quan chức nào của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo dục tiểu học hay người thân của họ đang nắm cổ phần hoặc hưởng lợi tức từ công ty này không?
Ngộ nhận về sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân
Theo công văn số 296/GDTH ngày 5/7/2016 do Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học Tạ Ngọc Trí ký, gửi Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phối hợp cung cấp thông tin cho Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, thì:
Trước năm 2000, Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục là sản phẩm của 1 đề tài cấp nhà nước do Giáo sư Hồ Ngọc Đại làm chủ nhiệm nghiệm thu năm 1991, và 1 đề tài cấp bộ, do Phó giáo sư Nguyễn Kế Hào làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 1994.
Sau năm 2000, Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục tiếp tục được hoàn thiện thông qua 3 đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 1 do Giáo sư Hồ Ngọc Đại làm chủ nhiệm, bảo vệ năm 2001;
Đề tài thứ 2 do Phó giáo sư Tiến sĩ Đặng Ngọc Riệp làm chủ nhiệm; Đề tài thứ 3 do Tiến sĩ Lê Văn Hồng làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2006.
Tất cả các đề tài nghiên cứu khoa học này đều sử dụng ngân sách nhà nước.
Cho nên, theo Điều 26, Luật Khoa học và Công nghệ (số 21/200/QH10) hay Điều 41 Luật Khoa học và Công nghệ (số 29/2013/QH13) đều xác định rõ:
Nhà nước là chủ sở hữu của các đề tài nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước.
Cụ thể, Điều 41 Luật Khoa học và Công nghệ hiện hành, quy định:
1. Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2. Đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước thì đại diện chủ sở hữu nhà nước được quy định như sau:
a) Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ là đại diện chủ sở hữu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là đại diện chủ sở hữu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp tỉnh hoặc cấp cơ sở do mình phê duyệt;
Học sinh lớp 1 vùng Đồng bằng sông Cửu Long gặp khó khăn với Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, theo phản ánh của VTV 9. Ảnh chụp màn hình.
c) Thủ trưởng cơ quan, tổ chức không thuộc quy định tại điểm a và điểm b của khoản này là đại diện chủ sở hữu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do mình quyết định phê duyệt.
3. Đại diện chủ sở hữu nhà nước quy định tại khoản 2 Điều này có quyền xét giao toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước theo quy định của Chính phủ cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Như vậy, có thể hiểu Bộ Giáo dục và Đào tạo là chủ sở hữu các đề tài nói trên cũng như kết quả của nó - Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục chứ không phải Giáo sư Hồ Ngọc Đại.
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận khi tại chức là đại diện chủ sở hữu của Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục.
Do đó, phải chăng tuyên bố của Giáo sư Hồ Ngọc Đại rằng ông tặng công trình này (Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục) cho Bộ Giáo dục và Đào tạo là một sự ngộ nhận?
Đó là còn chưa kể đến, Công ty Cổ phần đầu tư phát triển trường trung học phổ thông công nghệ giáo dục đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chuyển giao toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước hay chưa?
Nếu chưa, thì những khoản thu có được từ bán sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục có phải nộp lại ngân sách nhà nước không?
Do đó chúng tôi thiết nghĩ, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay nên trao đổi rõ với Giáo sư Hồ Ngọc Đại về việc này, đâu là sở hữu nhà nước, đâu là sở hữu tư nhân, đâu là việc công, đâu là chuyện tư, để tránh tạo ra những bức xúc không đáng có, trước hết là cho chính Giáo sư như đã từng xảy ra.
Bàn về số phận của Trung tâm Công nghệ giáo dục, Trường Thực nghiệm công nghệ giáo dục trong Diễn từ nhận Giải thưởng Phan Châu Trinh 2009, Giáo sư Hồ Ngọc Đại từng phải cảm khái thốt lên:
"Năm 2008, giữa tháng 5, đùng một cái, một Quyết định hành chính của Bộ Giáo dục và Đào tạo, do Thứ trưởng thường trực Bành Tiến Long ký, đã ngay lập tức lấy đi tất cả, lấy đi Trường Thực nghiệm, lấy đi sổ đỏ, lấy đi cả tên gọi, lấy đi cả con dấu, lấy đi cả tài khoản, lấy sạch cả từng đồng tiền mặt trong két."
Nếu Bộ Giáo dục và Đào tạo không lên tiếng giải thích rõ ràng về việc này, dư luận sẽ nghĩ như thế nào về hành động mà Giáo sư Hồ Ngọc Đại gọi là "lấy đi tất cả...lấy sạch cả từng đồng tiền mặt trong két"?
Truyền thông lâu nay vẫn gọi Giáo sư Hồ Ngọc Đại là người sáng lập Trường Thực nghiệm, nhưng cơ sở vật chất của nó là do ngân sách đầu tư hay Giáo sư bỏ tiền túi ra làm?
Nếu Giáo sư và Nhà nước cùng làm, thì tỉ lệ góp vốn mỗi bên là bao nhiêu?
Còn Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục là sản phẩm các đề tài nghiên cứu dùng tiền thuế của dân thì đã rõ.
Bộ Giáo dục nên dừng o bế Giáo sư Hồ Ngọc Đại, chấm dứt dùng ngân sách viết sách giáo khoa
Chúng tôi buộc phải dùng từ "o bế", bởi không biết dùng từ nào để diễn đạt việc Bộ Giáo dục và Đào tạo dùng ngân sách nhà nước hỗ trợ Giáo sư Hồ Ngọc Đại cùng cộng sự nghiên cứu hết đề tài này đến đề tài khác;
Bộ trưởng, Thứ trưởng thì giúp Giáo sư "lách luật" bằng 2 từ "thí điểm"; Vụ trưởng, Vụ phó và các chuyên viên Vụ Giáo dục tiểu học thì cúc cung tận tụy theo Giáo sư xuống các tỉnh để tập huấn "giáo viên cốt cán";
Vụ Giáo dục tiểu học đã đưa Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục vào Dự án VNEN, thiết lập hệ thống phân phối độc quyền và khép kín bằng công văn, ngành dọc.
Có lẽ chưa có một nhà khoa học giáo dục nào hay một nhóm nhà khoa học nào được hưởng những đặc ân như thế từ số 35 Đại Cồ Việt.
Nhưng cũng chính cách làm này, đã góp phần tạo ra một nhóm lợi ích bán tài liệu sử dụng như sách giáo khoa cùng các sản phẩm ăn theo;
Thời ông Ngô Trần Ái còn làm Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên hay kể cả khi chỉ còn là cố vấn cấp cao của Nhà xuất bản Giáo dục, 3 nhóm tồn tại đồng thời, nước sông không phạm nước giếng.
Sách giáo khoa 2000 thì vẫn đi đường chính ngạch, học sinh có thể mua ở bất kỳ hiệu sách nào. Sách công nghệ giáo dục và sách VNEN thì đi qua đường dự án, có kênh phân phối riêng.
Không chỉ Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục bán lạc kèm bia; VNEN bán sách học "đắt sắt ra miếng", mà ngay cả sách giáo khoa 2000 cũng thường kèm sách tham khảo, sách bài tập, sách nâng cao, đặc biệt là các sách luyện thi, hướng dẫn ôn tập của quan chức các vụ chuyên môn của Bộ.
Trong cuộc cạnh tranh miếng bánh thị trường này, nếu công nghệ giáo dục và VNEN càng phát triển thì thị phần của sách 2000 càng thu hẹp. Nhưng tất cả đều dưới trướng Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
Có điều, người mất nhiều nhất là dân nghèo. Bởi họ phải bỏ những đồng tiền mồ hôi nước mắt để mua những cuốn vở sử dụng một lần, cả những "tài liệu tương đương sách giáo khoa" dùng xong rồi bỏ.
Con em họ bị thí điểm mà không hay biết, bản thân họ phải bỏ tiền mua rất nhiều sách vở sử dụng một lần (cả sách 2000, sách VNEN hay công nghệ giáo dục đều có), tốn rất nhiều tiền và lãng phí kinh khủng.
Vì vậy chúng tôi thiết nghĩ, cần dừng ngay việc dùng tiền ngân sách, tức tiền thuế của nhân dân đóng góp để viết sách giáo khoa.
Còn làm thế nào không tốn ngân sách mà vẫn có nhiều bộ sách tốt, cạnh tranh lành mạnh với nhau để ngày càng nâng cao chất lượng, chúng tôi xin trở lại trong một bài viết khác.
Nguồn:
[1]https://www.youtube.com/watch?v=9U3yqMZhb3g
Theo giaoduc.net.vn
Tiếng Việt công nghệ giáo dục: tranh cãi vì đâu? Dư luận mấy ngày nay xôn xao về một clip dạy đánh vần 'lạ' thật ra là của chương trình công nghệ giáo dục đã tồn tại mấy mươi năm qua. Tài liệu dạy tiếng Việt lớp 1 của công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) đến nay tròn 40 năm ra đời nhưng chỉ tính riêng 5 năm gần đây, dưới hai thời bộ...