Bảo đảm thuốc ARV điều trị bền vững cho bệnh nhân HIV
Thời gian qua, tình trạng thiếu thuốc điều trị ARV khiến cho người nhiễm HIV rất lo ngại bị gián đoạn điều trị.
Tại một số địa phương đã có bệnh nhân HIV nhóm (điều trị ổn định) thay vì được nhận đủ thuốc ARV sử dụng trong ba tháng thì chỉ được nhận thuốc dùng một tháng, thậm chí hai tuần.
Theo số liệu thống kê của Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), tính đến thời điểm hiện tại cả nước phát hiện gần 250.000 người nhiễm HIV. Trong năm 2023, phát hiện 13.445 trường hợp HIV dương tính mới, 1.623 trường hợp t.ử v.ong. Số người nhiễm HIV biết tình trạng bệnh là 234.220 trường hợp. Về điều trị thuốc kháng HIV (ARV), hiện có 534 cơ sở y tế điều trị HIV trên toàn quốc trong đó có 513 cơ sở sử dụng thuốc do bảo hiểm y tế chi trả. Số người bệnh HIV đang điều trị bằng thuốc ARV tiếp tục tăng.
Thăm khám cho bệnh nhân HIV.
Trong số bệnh nhân đang điều trị ARV có 82% được làm xét nghiệm tải lượng HIV nhằm theo dõi hiệu quả điều trị ARV. 98,3% người bệnh điều trị ARV có tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế (dưới 1000 bản sao/mL m.áu). Kết quả này vượt chỉ tiêu 95% trong Chiến lược quốc gia hướng đến kết thúc AIDS vào năm 2030.
Điều trị thuốc ARV cho người nhiễm HIV cần liên tục, suốt đời và người bệnh HIV cần tuân thủ điều trị tốt. Hiệu quả điều trị thuốc ARV không chỉ làm cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV mà còn làm giảm nhiễm HIV mới, giảm lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Người bệnh HIV điều trị thuốc ARV có tải lượng HIV dưới 200 bản sao/ml thì sẽ không làm lây truyền HIV quan quan hệ t.ình d.ục. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi đường lây truyền HIV chủ yếu hiện nay tại Việt Nam là qua quan hệ t.ình d.ục. Phụ nữ mang thai nhiễm HIV có tải lượng HIV dưới 50 bản sao/ml vào lúc chuyển dạ thì tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con giảm từ 45% xuống còn dưới 0,5%. Điều này góp phần quan trọng vào việc kết thúc bệnh dịch AIDS vào năm 2030.
Khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm 2023 cho rằng, khi tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế thì người nhiễm HIV gần như không làm lây truyền HIV qua quan hệ t.ình d.ục. Điều này cho thấy, việc mở rộng và duy trì điều trị ARV bảo đảm chất lượng, hiệu quả sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm nguy cơ nhiễm HIV mới trong cộng đồng. Tuy nhiên, do khó khăn trong quá trình tự mua sắm thuốc điều trị HIV nên thời gian gần đây, một số tỉnh, thành phố lo lắng nguy cơ có thể bị gián đoạn thiếu thuốc bảo hiểm y tế. Việc này khiến nhiều bệnh nhân nhiễm HIV lo lắng bị gián đoạn thuốc sẽ nguy cơ tiến triển tình trạng bệnh.
Tìm thuốc bằng nhiều giải pháp
Trong bối cảnh mua sắm thuốc ARV điều trị cho người nhiễm HIV gặp một số khó khăn, thì việc Tổ chức Y tế thế giới, Chính phủ Australia hỗ trợ thuốc Acriptega – một loại thuốc ARV phác đồ bậc 1 ưu tiên là rất cần thiết cho công tác điều trị người bệnh HIV tại Việt Nam hiện nay.
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, thời gian qua, công tác mua sắm thuốc ARV điều trị người nhiễm HIV tại Việt Nam gặp một số khó khăn. Do đó, đây là món quà rất thiết thực, là tình cảm quý báu của Tổ chức Y tế thế giới và Chính phủ Australia mang đến cho những bệnh nhân điều trị HIV tại Việt Nam.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan cho biết thêm, hiện Bộ Y tế đang quyết liệt thúc đẩy việc mua sắm thuốc ARV từ nguồn BHYT và vừa hoàn thành việc đàm phán giá thuốc ARV đợt 1. Dự kiến từ tháng 6 đến tháng 8-2024 sẽ có 14,5 triệu viên thuốc được cung cấp để điều trị cho người bệnh HIV. Số thuốc còn lại sẽ được đấu thầu tập trung cấp quốc gia, để kịp thời nối tiếp bảo đảm người nhiễm HIV đang điều trị không bị gián đoạn thuốc.
Cấp thuốc điều trị cho người nhiễm HIV .
Video đang HOT
Theo Cục Phòng, chống HIV/AIDS, công tác điều trị thuốc ARV cho người nhiễm HIV được triển khai tại Việt Nam đến nay đã hơn 20 năm. Trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm có trên 10.000 người nhiễm HIV được đưa vào điều trị thuốc ARV. Từ năm 2019, Việt Nam bắt đầu chuyển giao chi phí thuốc ARV và các dịch vụ điều trị ARV do bảo hiểm y tế chi trả. Từ năm 2020, Việt Nam đã thực hiện phác đồ ARV tối ưu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới.
Thuốc Acriptega là thuốc viên kết hợp phác đồ tối ưu điều trị nhiễm HIV. Hiện nay, có khoảng 85% người bệnh đang sử dụng phác đồ tối ưu này, bao gồm cả điều trị cho phụ nữ mang thai nhiễm HIV.
Phác đồ này cũng đã được bảo hiểm y tế chi trả. Điều trị thuốc ARV cho người nhiễm HIV cần liên tục, suốt đời và người bệnh HIV cần tuân thủ điều trị tốt.
Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục chiến lược mở rộng điều trị ARV trong ngày, điều trị ARV nhanh cho tất cả các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện; đồng thời tiếp tục tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình mua sắm thuốc ARV, nhằm duy trì cung ứng thuốc, bảo đảm điều trị bền vững cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Ám ảnh sợ hãi điều trị như thế nào?
Nguồn gốc chính xác của chứng ám ảnh sợ hãi vẫn còn là một bí ẩn trong cộng đồng y tế với rất nhiều giả thuyết khác nhau.
Vậy có cách nào điều trị hội chứng này?
1. Nguyên nhân của chứng ám ảnh sợ hãi
Ám ảnh sợ hãi là một chứng rối loạn lo âu thể hiện nỗi sợ hãi phi lý, tăng cao đối với các đồ vật, sinh vật hoặc tình huống thường không gây ra những phản ứng như vậy ở hầu hết mọi người.
Những người mắc hội chứng này, nỗi sợ hãi có thể leo thang đến mức cản trở hoạt động hàng ngày, gây căng thẳng và lo lắng tột độ.
Các nguyên nhân tiềm ẩn bao gồm xung đột tâm lý, trải nghiệm đau thương trong quá khứ liên quan đến những sự việc, đồ vật gây sợ hãi và sự mất cân bằng hóa học trong não. Khuynh hướng di truyền cũng đóng một vai trò nào đó.
Nghiên cứu cho thấy rằng, tỷ lệ ám ảnh sợ hãi ở các cá nhân cao hơn khi trong gia đình có thành viên cũng bị ảnh hưởng bởi những nỗi sợ hãi tương tự.
Nguồn gốc chính xác của chứng ám ảnh sợ hãi vẫn còn là một bí ẩn trong cộng đồng y tế.
Có 3 loại ám ảnh sợ hãi chính:
- Nỗi ám ảnh cụ thể: Đây là loại ám ảnh phổ biến như sợ rắn, gián, bướm, vật sắc nhọn, nhìn thấy m.áu, độ cao, bóng tối...
- Chứng sợ khoảng không: Một số ví dụ bao gồm sợ nơi đông người, sợ không gian nhỏ, sợ phòng không có cửa sổ, sợ ngồi ở ghế sau của xe tải, sợ đi vào máy quét MRI hoặc sợ máy bay...
- Nỗi ám ảnh xã hội: Những người mắc chứng ám ảnh xã hội trải qua nỗi sợ hãi trong các tình huống xã hội mà họ là trung tâm của sự chú ý, như phát biểu, sử dụng micrô...
2. Phương pháp điều trị ám ảnh sợ hãi
Chứng ám ảnh sợ hãi có thể không nguy hiểm ngay lập tức về mặt thể chất, nhưng nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng và lâu dài đối với sức khỏe tâm lý và chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Việc điều trị và quản lý chứng ám ảnh sợ hãi là rất quan trọng để cải thiện tình trạng và ngăn ngừa các tác động tiêu cực. Nếu bạn hoặc người thân đang gặp phải chứng ám ảnh sợ hãi, hãy tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chuyên gia tâm lý hoặc tâm thần để được tư vấn và điều trị kịp thời.
Việc điều trị thường bao gồm hai chiến lược chính:
- Trị liệu hành vi : Liên quan đến việc tiếp xúc dần dần với nguồn gốc của nỗi sợ hãi, bắt đầu với những nỗi sợ hãi nhẹ hơn và dần dần giải quyết những nỗi sợ hãi dữ dội hơn. Sự hợp tác của bệnh nhân là rất quan trọng để thành công.
- Dùng thuốc: Thuốc thường là bước khởi đầu trước liệu pháp hành vi và không phải là phương pháp điều trị độc lập. Bao gồm kê đơn các loại thuốc như thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần, thuốc chẹn beta để kiểm soát mức độ sợ hãi.
Việc điều trị và quản lý chứng ám ảnh sợ hãi là rất quan trọng để cải thiện tình trạng và ngăn ngừa các tác động tiêu cực.
3. Thuốc điều trị chứng ám ảnh sợ hãi
3.1 Thuốc chống trầm cảm
Thuốc chống trầm cảm có phổ tác dụng rộng và có hiệu quả trong điều trị nhiều chứng rối loạn tâm thần khác nhau, trong đó có ám ảnh sợ hãi. Các chất ức chế tái chế serotonin có chọn lọc là thuốc chống trầm cảm được sử dụng phổ biến nhất để điều trị chứng ám ảnh sợ hãi, bao gồm các thuốc như paroxetine và citalopram.
Mặc dù những loại thuốc này có hiệu quả nhưng chúng cũng có tác dụng phụ, bao gồm các vấn đề về giấc ngủ hoặc làm tăng sự lo lắng ở những người dùng thuốc.
Nếu mắc chứng ám ảnh xã hội, thuốc ức chế monoamine oxidase cũng có thể được sử dụng. Thuốc ức chế monoamine oxidase có thể tương tác nguy hiểm với một số loại thực phẩm, vì vậy hãy cẩn thận và làm theo hướng dẫn của bác sĩ khi dùng chúng.
Tất cả các loại thuốc trên đều phải mất vài tuần mới có tác dụng. Sau khi ngừng dùng thuốc, có thể gặp các triệu chứng cai thuốc như chóng mặt, khó chịu ở đường tiêu hóa hoặc đau đầu. Vì vậy, phải giảm liều từ từ.
3.2 T.huốc a.n t.hần
T.huốc a.n t.hần được chỉ định sử dụng để giảm bớt lo lắng. Các t.huốc a.n t.hần thường dùng như benzodiazepin, alprazolam, lorazepam giúp giảm lo âu nhanh chóng.
Tuy nhiên, nếu lạm dụng, thuốc có thể gây phụ thuộc và do đó phải thận trọng khi sử dụng và thường chỉ sử dụng khi bắt đầu điều trị. Tốt nhất nên dùng liều thấp trong thời gian ngắn.
3.3 Thuốc chẹn beta
Thuốc chẹn beta có thể được sử dụng để điều trị các triệu chứng thực thể do lo lắng gây ra, như nhịp tim nhanh, đ.ánh trống ngực, run...
Một số tác dụng phụ có thể xảy ra như khó ngủ và ác mộng, nhưng không gây ra các triệu chứng mất tập trung và không gây nghiện. Do thuốc có tác dụng lên tim và huyết áp nên cần giảm liều từ từ.
4. Những lưu ý trong quá trình sử dụng thuốc
Khi sử dụng thuốc điều trị chứng ám ảnh sợ hãi, có một số lưu ý quan trọng mà người bệnh cần ghi nhớ để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong điều trị.
- Tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ: Chỉ sử dụng thuốc theo đơn, không tự ý mua và sử dụng thuốc mà không có sự chỉ định của bác sĩ.
- Không tự ý ngừng thuốc: Ngừng thuốc đột ngột có thể gây ra triệu chứng cai thuốc hoặc tái phát triệu chứng. Luôn thảo luận với bác sĩ trước khi thay đổi liều lượng hoặc ngừng thuốc.
- Theo dõi và báo cáo tác dụng phụ: Ghi lại bất kỳ tác dụng phụ nào gặp phải và báo cáo ngay với bác sĩ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của điều trị. Báo cáo ngay nếu có bất kỳ suy nghĩ tiêu cực hoặc thay đổi bất thường nào về tâm trạng.
- Tránh tương tác thuốc: Cung cấp đầy đủ thông tin về các loại thuốc, thực phẩm chức năng và thảo dược đang sử dụng để bác sĩ có thể đ.ánh giá và ngăn ngừa tương tác thuốc không mong muốn.
- Hạn chế rượu và chất kích thích: Rượu và một số chất kích thích có thể làm giảm hiệu quả của thuốc hoặc tăng nguy cơ tác dụng phụ.
- Kiên nhẫn: Thuốc có thể cần vài tuần mới có tác dụng đầy đủ. Do đó, người bệnh không được nản lòng nếu không thấy cải thiện ngay lập tức.
- Chăm sóc bản thân: Thực hiện các biện pháp tự chăm sóc như tập thể dục đều đặn, ăn uống lành mạnh, và duy trì giấc ngủ đủ giấc.
- Thực hành kỹ thuật thư giãn: Các phương pháp như thiền, yoga và các bài tập thở có thể giúp giảm lo âu và cải thiện hiệu quả điều trị.
Báo động đỏ cấp cứu người phụ nữ '9 phần t.ử v.ong' T.iền sử khỏe mạnh, khi đang mang thai ở tuần thứ 13, chị L.T.S thấy đau đầu, nôn rồi bất ngờ xuất hiện cơn co giật, ý thức giảm, phải đi cấp cứu. Bệnh nhân là chị L.T.S, 32 t.uổi, được đưa vào khoa Cấp cứu ngoại, Bệnh viện Quân y 103 (Hà Nội). Cách vào viện 2-3 ngày, chị đau đầu, buồn...