Bài toán nào tháo ‘điểm nghẽn’ trong tự chủ đại học?
Thực tiễn triển khai tự chủ đại học ở Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế vì chưa xây dựng được một lộ trình tự chủ đại học rõ ràng nên sau giai đoạn thí điểm thiếu những định hướng cụ thể để tiếp tục triển khai tự chủ đại học.
Sau 8 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XI và 7 năm thực hiện Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ, thực tế cho thấy, tự chủ đại học đã trở thành một nhu cầu tự thân, một xu thế tất yếu và có tính khách quan. Tự chủ đại học vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Trên cơ sở triển khai hiệu quả, quyết liệt đổi mới giáo dục đại học theo tinh thần Nghị quyết 29, có thể thấy, tự chủ đại học đã đem lại những kết quả quan trọng, tạo ra động lực sự phát triển cho hệ thống giáo dục đại học nói chung và các cơ sở GDĐH công lập nói riêng.
Một số mô hình tự chủ đại học đã dần được định hình. Nhận thức về tự chủ đại học đã được nâng lên ở tầm cao mới; tự chủ đại học thực sự đã tạo ra một sức sống mới giúp các trường công lập nâng cao chất lượng đào tạo; đồng thời, hướng tới cung cấp cho thị trường lao động nguồn nhân lực chất lượng cao hơn.
PGS. TS. Bùi Anh Tuấn, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương
Ở một số ngành nghề đào tạo, nhân lực không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu khu vực và quốc tế. Vấn đề chuyển giao công nghệ và tri thức cũng có những chuyển biến tích cực. Công tác đảm bảo chất lượng, số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên và viên chức quản lý của các cơ sở giáo dục đại học nâng cao rõ rệt.
Mặc dù vậy, quá trình tự chủ đại học còn có những điểm nghẽn, những hạn chế trong nhận thức cũng như trong thực tiễn triển khai.
Chưa thống nhất được một mô hình tự chủ
Thực tiễn triển khai tự chủ đại học ở Việt Nam đã bộ lộ nhiều hạn chế vì chưa xây dựng được một lộ trình tự chủ đại học rõ ràng và còn thiếu những hướng dẫn cụ thể trong triển khai tự chủ đại học.
Bên cạnh đó , cơ chế thị trường để các cơ sở GDĐH trong đó có các cơ sở GDĐH tự chủ cạnh tranh bình đẳng với nhau chưa được hoàn thiện. Việc triển khai tự chủ đại học trong thời gian qua mới chỉ đề cập tới ở các trường đại học công lập và hầu như chưa đề cập tới các trường đại học tư thục.
Trong khi các cơ sở GDĐH công lập tự chủ chịu nhiều ràng buộc và bị kiểm soát theo các quy định hiện hành thì các trường tư thục hầu như vận hành theo cơ chế thị trường với ít ràng buộc hơn.
Điều này dẫn tới sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các cơ sở GDĐH. Những đồi hỏi như minh bạch thông tin, đơn giản hóa các thủ tục hành chính… chưa được đáp ứng đầy đủ.
Sinh viên trường Đại học Ngoại thương.
Hiện nay,các cơ sở GDĐH đang hoạt động dưới nhiều hình thức với mức độ tự chủ khác nhau trong thực tiễn như: các đại học quốc gia, các trường đại học quốc tế, các đại học vùng, các cơ sở GDĐH công lập thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị quyết 77/2014/NQ-CP, các cơ sở GDĐH công lập chưa thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị quyết 77/2014/NQ-CP, các cơ sở GDĐH tư thục, và các cơ sở GDĐH có 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Sau quá trình thí điểm tự chủ, chúng ta chưa xác định được một mô hình tự chủ phù hợp cho các cơ sở GDĐH công lập của Việt Nam. Mặc dù chúng ta đã chấp nhận sự tham gia của các cơ sở GDDH tư nhân, của các nhà đầu tư tư nhân trong GDĐH nhưng chưa hoàn thiện thể chế thị trường để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả cho các cơ sở GDĐH.
Video đang HOT
Từthực tiễn cho thấy có nhiều xu hướng đối lập nhau trong quá trình tự chủ đại học. Nhiều trường chưa đủ năng lực thực hiện tự chủ, quen với cơ chế xin-cho, quen được cầm tay chỉ việc, không phát huy được tự chủ do “sợ làm sai”.
Trong khi đó, cũng có trường lại nghĩ đơn giản “tự chủ nghĩa là muốn làm gì cũng được” không tuân thủ các quy định của pháp luật. Vẫn còn có sự khác biệt trong cách thức quản lý của cơ quan chủ quản đối với cơ sở giáo dục đại học. Có cơ quan quản chủ quản can thiệp quá sâu vào hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
Những điều kiện ở trong nước, khu vực và trên thế giới định hình cơ chế thị trường và cạnh tranh trong giáo dục đại học đang thay đổi nhanh chóng. Điều này dẫn tới hình thức và mức độ cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH của Việt Nam với nhau và giữa các cơ sở GDĐH Việt Nam với các cơ sở GDĐH nước ngoài thay đổi.
Những lợi thế truyền thống bị thay thế bởi những yếu tố mới mà các cơ sở GDĐH công lập không có đủ cơ chế hoặc nguồn lực để có thể thay đổi nhanh chóng. Do vậy, việc lựa chọn một mô hình tự chủ đại học phù hợp ngày càng khó khăn hơn đối với các cơ sở GDĐH công lập.
Nhiều bất cập trong nhận thức
Về mô hình tự chủ hiện nay có nhận thức khác nhau về vấn đề phân cấp, phân quyền trong quản lý đối với các cơ sở GDĐH.
Cụ thể, các cơ chế, chính sách hiện nay vẫn theo hướng cơ quan quản lý Nhà nước kiểm soát các cơ sở GDĐH. Các cơ quan chủ quản vẫn tồn tại và vẫn có thể can thiệp vào các công việc của các cơ sở GDĐH như thiết lập bộ máy quản lý, nhân sự và đầu tư.
Quyền tự quyết của các cơ sở GDĐH được đề cập nhưng trên thực tế các cơ sở này vẫn bị chế định trong mối quan hệ tương tác với các chủ thể khác trong xã hội. Trong khi đó, vẫn còn nhiều cơ sở GDĐH muốn được bao cấp kinh phí đầu vào trong khi muốn được quyền tự chủ quyết định các khoản chi đầu ra.
Nhận thức và kỳ vọng của các bên liên quan trong quá trình tự chủ các cơ sở GDĐH còn khác biệt, trong đó có cả giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân.
Trong khi các cơ chế, chính sách, quy định vẫn tiếp tục duy trì sự kiểm soát của Nhà nước đối với các cơ sở GDĐH thì các nhà đầu tư tư nhân mong muốn các cơ sở GDĐH được vận hành theo cơ chế thị trường và các cơ sở GDĐH được quản trị như một doanh nghiệp.
Do vậy, còn có sự mâu thuẫn nhất định giữa cơ chế thị trường và cơ chế Nhà nước trong việc quản lý các cơ sở giáo dục đại học công lập được trao quyền tự chủ. Nói cách khác, thể chế hiện nay chưa được hoàn thiện để có thể thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân. Có thể nói sự đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân vào GDĐH ở Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn: Ở giai đoạn thứ nhất (trước năm 2000), các trường đại học tư nhân đầu tiên ra đời với tên gọi là các trường đại học dân lập; Giai đoạn hai (2001-2013) đánh dấu sự tham gia của các trường đại học quốc tế; Giai đoạn ba (2014 đến nay) chứng kiến các hoạt động mua bán, sáp nhập và sự hình thành của một số cơ sở GDĐH tư nhân được đầu tư lớn.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến nay cả nước có 237 trường đại học (không tính các trường thuộc khối quốc phòng/an ninh), trong đó có 172 trường công lập (chiếm khoảng 72,5%) và 65 trường ngoài công lập (chiếm khoảng 27,5%). Trong đó có 5 trường 100% vốn đầu tư nước ngoài. Quá trình này cho thấy các nhà đầu tư tư nhân đã quan tâm nhiều hơn tới hệ thống GDĐH của Việt Nam. Tuy vậy, hầu như chưa có nhà đầu tư tư nhân nào đầu tư vào các cơ sở GDĐH công lập.
Nhận thức về quản trị, quản lý và vai trò đại diện của các cơ sở đại học công lập được trao quyền tự chủ còn nhiều hạn chế. Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới giáo dục đại học đã quy định cần phải “Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu Nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập”.
Theo quy định này, khi đã đưa vào Hội đồng trường đại diện của Bộ chủ quản thì sự quản lý của Bộ chủ quản phải thông qua đại diện này. Nghị quyết 89/NQ-CP năm 2016 đã nhấn mạnh cần phải “Giảm mạnh sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động của các trường đại học, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản; đổi mới mô hình quản trị đại học theo hướng chuyển từ chế độ thủ trưởng sang chế độ tập thể lãnh đạo (Hội đồng trường)”. Mặc dù vậy, những nhận thức này còn chưa được thực hiện đầy đủ và triệt để.
Bất cập trong cơ chế, chính sách
Về cơ chế, chính sách, cũng còn có một số hạn chế, bất cập nhất định. Hiện nay, các cơ quan quản lý Nhà nước chưa ban hành được một hệ thống các quy định, chính sách riêng để quản lý các cơ sở GDĐH công lập tự chủ mà các cơ sở GDĐH công lập tự chủ vẫn bị ràng buộc bởi các quy định chung cho mọi cơ sở GDĐH. Sự bất cập của hệ thống quy định, chính sách làm giảm hiệu quả điều tiết thị trường của Nhà nước.
Nhiều quy định luật pháp mâu thuẫn với nhau trong quá trình các cơ sở GDĐH triển khai thực hiện tự chủ: Luật GDĐH như Luật Tài sản công, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Viên chức, Luật Lao động…
Mối quan hệ Nhà nước – Nhà trường – Xã hội chưa được xử lý hiệu quả khi các chính sách còn thiếu và chưa đi vào nhiều vấn đề trọng tâm của tự chủ đại học.
Mặc dầu chúng ta chấp nhận sự tham gia của các cơ sở GDDH tư nhân, cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân cho GDĐH nhưng chúng ta lại chưa quan tâm tới xây dựng thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho GDĐH, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở GDĐH.
Nguyên nhân của những bất cấp, hạn chế trong tự chủ GDĐH hiện nay là chưa có sự nhận thức đồng bộ, thống nhất và từ đó đi đến thống nhất hành động về tự chủ đại học trong toàn bộ hệ thống chính trị. Nhận thức về tự chủ đại học ở xã hội, trong từng cơ sở GDĐH cũng còn chưa thống nhất; thiếu những đột phá về chính sách, về quy định liên quan đến tự chủ đại học; thiếu chính sách và quy định để hình thành thể chế thị trường đồng bộ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các cơ sở GDĐH; thiếu đồng bộ, nhất quán trong hệ thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật luật liên quan đến tự chủ đại học và việc triển khai thực hiện trên thực tiễn.
Một trong những nội dung quan trọng có thể coi là nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trên là việc tổng kết và đánh giá kết quả thí điểm tự chủ đại học còn chưa toàn diện, chưa đi vào thực chất.
Cho đến nay chưa có một khảo sát, điều tra đánh giá một cách khoa học, được lượng hóa và toàn diện về kết quả của quá trình tự chủ đại học đến giai đoạn hiện nay (sau khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học đi vào cuộc sông). Do vậy, những nhận định hiện nay vẫn còn có thể mang tính phiến diện, chưa sâu sắc.
Cần khảo sát, đánh giá toàn diện hơn nữa về tự chủ đại học
Để giải bài toán cho các vấn đề tắc nghẽn trên thì cần có sự thống nhất về về tự chủ GDĐH và triển khai thực hiện tự chủ GDĐH trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước cần tập trung rà soát, đánh giá để từ đó hoàn thiện hành lang pháp lý cho các cơ sở GDĐH phát triển. Vấn đề quan trọng trước mắt là phải nhanh chóng hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật về tự chủ đại học, khắc phục ngay những bất cập, mâu thuẫn trong các quy định pháp lý đang điều chỉnh các cơ sở GDĐH công lập được tự chủ.
Nguyên tắc chung trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý phải là chuyển từ Nhà nước kiểm soát sang Nhà nước giám sát các cơ sở GDĐH. Đồng thời, hành lang pháp lý cần tạo ra khung khổ cho cơ chế thị trường khi thực hiện tự chủ đại học hoạt động một cách hiệu quả, đáp ứng các định hướng, mục tiêu của Nhà nước.
Bên cạnh đó , các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải xây dựng các chính sách mới, các văn bản pháp luật mới có tính chất dẫn dắt quá trình tự chủ đại học trong đó tập trung vào các chính sách để khắc phục thất bại của cơ chế thị trường trong quá trình tự chủ đại học.
Theo đó cần tập trung vào các chính sách: Xây dựng cơ chế đầu tư phát triển có trọng điểm, hiệu quả cho các cơ sở GDĐH công lập tự chủ; tăng cường cơ chế đặt hàng trong đào tạo và nghiên cứu; cấp kinh phí cho đối tượng cần dịch vụ giáo dục đại học để các cơ sở GDĐH cạnh tranh thu hút; Chú trọng đầu tư nguồn nhân lực quản trị đại học; Đảm bảo bình đẳng giữa các cơ sở giáo dục đại học, giữa các mô hình tự chủ đang được triển khai. Nếu còn tiếp tục triển khai thí điểm tự chủ đại học, cần chấp nhận ở mức độ nào đó những việc phá cách, vượt rào để hướng tới mô hình mới.
Đồng thời,Nhà nước cần đảm bảo định hướng thị trường để phát triển các cơ sở GDĐH. Bộ GD và ĐT cần triển khai một nghiên cứu quy mô, khảo sát và đánh giá toàn diện quá trình thực hiện và kết quả thí điểm tự chủ đại học tại Việt Nam trong thời gian qua.
Nghiên cứu cần đánh giá lại cơ chế chủ quản đối với các cơ sở GDĐH, việc tách quản lý Nhà nước ra khỏi vận hành các cơ sở GDĐH, tiến tới xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản theo tinh thần Nghị quyết 19-NQ/TW, Nghị quyết 29-NQ/TW của Đảng, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP và Nghị quyết số 89/NQ-CP của Chính phủ.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đánh giá quá trình thực hiện và kết quả thí điểm tự chủ đại học tại Việt Nam trong thời gian qua, các cơ quan quản lý Nhà nước cần hoàn thiện các mô hình tự chủ đại học trong đó làm rõ vấn đề quản trị đại học, sở hữu đại học công lập. Việc phân chia quyền lực giữa cơ quan chủ quản và cơ sở GDĐH cần được thực hiện một cách khoa học và tường minh. Nhà nước cần có những tuyên bố rõ ràng về sự phân chia quyền lực này. Nhà nước cần từ bỏ tư duy ban phát, đánh đổi, ra điều kiện với các cơ sở GDĐH và nên căn cứ vào năng lực để trao quyền tự chủ.
Bên cạnh đó, chìa khóa để thành công trong tự chủ đại học đó là các cơ sở GDĐH cần phải có được nhận thức đúng đắn về tự chủ đại học. Các cơ sở GDĐH cần đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết giữa các thiết chế Đảng ủy, Hội đồng trường và Ban Giám hiệu trong quản trị đại học. Tùy vào tình hình cụ thể của cơ sở GDĐH mà các vị trí này cần phải được bố trí, sắp xếp một cách phù hợp, khoa học, đảm bảo sự gắn kết, hỗ trợ, kiểm soát lẫn nhau vì mục tiêu phát triển chung của cơ sở GDĐH.
PGS. TS. Bùi Anh Tuấn, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương
Xây dựng trường học hạnh phúc - Một nhiệm vụ của giáo dục
Năm học 2022-2023 được xác định là năm trọng tâm của đổi mới. Trong sự đổi mới đó thì việc xây dựng những "Ngôi trường hạnh phúc" được cho là nhiệm vụ lớn của ngành giáo dục.
Mục tiêu là tất cả các trường học đều bao gồm ba khía cạnh cơ bản của Trường học Hạnh phúc. Ảnh: TL
Hình thành các giá trị cốt lõi là yêu thương, an toàn và tôn trọng
Trong bức thư đăng trên Báo Nhân Dân, số 600, ngày 24.10.1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Giáo dục các em là việc chung của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc".
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo cũng nhấn mạnh quan điểm: "Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học".
Trường học hạnh phúc hướng tới việc hình thành các giá trị cốt lõi là yêu thương, an toàn và tôn trọng. Trong đó, mỗi thành viên từ cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh được nói lên suy nghĩ, có điều kiện đổi mới sáng tạo, phát huy hết các năng lực cá nhân. Ở môi trường này, từng thành viên đều cảm thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui, trường học như gia đình. Để làm được điều này, bản thân mỗi nhà trường, giáo viên và lãnh đạo quản lý đều phải thay đổi để tạo môi trường giáo dục khiến học sinh hạnh phúc.
Là một người tham gia dự án triển khai Trường học hạnh phúc tại Việt Nam nhiều năm nay, Giáo sư Hà Vĩnh Thọ - một chuyên gia trong lĩnh vực Giáo dục đặc biệt và trị liệu Xã hội- cho rằng: "Các kỳ thi, điểm số và bài kiểm tra là một phần tự nhiên của hệ thống giáo dục, nhưng chúng không phải là mục tiêu cuối cùng của nó. Chúng chỉ đơn giản là phương tiện kết thúc. Mục đích của giáo dục là giúp trẻ em và thanh thiếu niên phát huy hết tiềm năng, trí tuệ, tình cảm, thực tiễn (giáo dục cái đầu, trái tim, bàn tay); trang bị các kỹ năng, năng lực và các giá trị đạo đức vững chắc nhằm định hướng cho các em trong cuộc sống. Kiến thức học thuật là quan trọng, nhưng trong thời đại của AI, điều đó là chưa đủ; họ cần các kỹ năng xã hội, kỹ năng cảm xúc, sáng tạo và khả năng làm việc nhóm. Không cái nào trong số này có thể dễ dàng được kiểm tra trong các kỳ thi truyền thống chủ yếu đánh giá trí nhớ, thông tin và tư duy logic. Giáo viên và học sinh không nên tập trung quá nhiều vào việc vượt qua các kỳ thi mà hãy dạy, học các kỹ năng và năng lực mà thế hệ sau sẽ cần để trở thành những người tốt, những công dân gắn bó và những chuyên gia sáng tạo".
Giáo sư Thọ cũng nhấn mạnh về vai trò của giáo viên: "Để hình thành trường học hạnh phúc, các giáo viên phải trang bị sự hiểu biết, kiến thức và kỹ năng giúp họ chú ý và chăm sóc sự hạnh phúc và sức khỏe của tất cả học sinh. Nó mở rộng phạm vi nhận thức của giáo viên, để nó bao gồm cả sức khỏe tinh thần và tình cảm của trẻ em. Chỉ khi học sinh cảm thấy an toàn về cảm xúc, được xã hội chấp nhận và hòa nhập, chúng mới có thể phát huy tiềm năng của mình, học hỏi và phát triển toàn diện. Mục tiêu là tất cả các trường học đều bao gồm ba khía cạnh cơ bản của Trường học Hạnh phúc: - sống hòa hợp với bản thân, người khác và thiên nhiên - trong tất cả các môn học và hoạt động".
Thay đổi để hạnh phúc
Hồi cuối tháng 9.2022, Hội thảo "Thay đổi Vì một trường học hạnh phúc" với Chủ đề "Chọn Yêu thương - Chọn Hạnh phúc" được tổ chức tại Đà Nẵng thu hút 400 hiệu trưởng đến từ 50 tỉnh thành trên toàn quốc.
Tại đây, nhiều ý kiến tâm huyết từ các thầy cô đã được ghi nhận. "Bấy lâu nay tôi luôn ấp ủ mong muốn xây dựng ngôi trường nơi mình đang công tác một ngôi trường hạnh phúc đúng nghĩa cho các em học sinh. Tôi đã cố gắng thay đổi từng chi tiết nhỏ nhất từ bản thân mình và lan tỏa cho đội ngũ các thầy cô giáo"- Cô Trần Thị Dung Huế - Trường Tiểu học Thạch Đài, Hà Tĩnh chia sẻ.
Nói về trường học hạnh phúc, nhiều ý kiến cho rằng không thể đợi đến khi các em trưởng thành mà phải từ cấp mẫu giáo. Cô giáo Trần Phạm Lê Mai nói: "Trường tôi là 1 trường mầm non. Ngôi trường hạnh phúc của chúng tôi có những em bé hạnh phúc, những cô giáo, cô bếp, cô tạp vụ, cô văn thư, bác bảo vệ hạnh phúc, Ban giám hiệu hạnh phúc. Từng ngõ ngách, từng nét vẽ trên tường, từng món đồ chơi đều cho người ta cảm giác ấm áp trong lòng. Chúng tôi ở đây trước là để kiếm tiền mưu sinh, nhưng muốn kiếm tiền có nhiều nghề dễ hơn và nhanh hơn.
Chúng tôi ở đây, muốn sống được bằng tình yêu thương, bằng năng lượng ấm áp trao và được trao, bằng sự dựa cậy che chở cho nhau qua những thử thách chung và riêng. Ngôi trường của chúng tôi, mỗi cá thể được sắp xếp để làm đúng chỗ mình yêu và cần mình, được khơi mở để yêu thương bản thân mình, hạnh phúc với chính mình và lan tràn hạnh phúc đó sang cho những người xung quanh".
Hạnh phúc không phải là câu chuyện điểm số. "Xây dựng ngôi trường mà ở đó là nơi không có bạo lực học đường, không có hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo, không có những hành xử xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thân thể nhà giáo và học sinh. Là nơi mà thầy cô và học sinh vui sống trong sẻ chia, cảm thông và yêu thương nhau. Đồng thời, nơi đó cũng là mái nhà chung mà mỗi ngày giáo viên và học sinh đến trường là một niềm hạnh phúc. Với các thầy giáo cô giáo không chỉ dạy cho các em về kiến thức văn hóa, mà còn dạy cho các em về đạo đức làm người, có lối sống lành mạnh, tích cực, biết quan tâm chia sẻ và giúp đỡ mọi người...."- thầy Ngô Phi Công, Hiệu trưởng Trường THPT Bắc Trà Mi (Quảng Nam) chia sẻ.
Còn cô Nguyễn Thị Nga - Hiệu trưởng trường Liên cấp TH và THCS Trần Quốc Toản, Bắc Ninh trăn trở: "Là một hiệu trưởng tôi luôn trăn trở và suy nghĩ rằng hiệu trưởng cần thay đổi như thế nào và phải làm những gì để giáo viên của mình yêu thích, tâm huyết, say sưa với nghề, yêu thương và tôn trọng học trò như con của mình; làm thế nào để học trò của mình cứ muốn đến trường học, nhìn thấy thầy cô, bạn bè là thấy niềm vui và hạnh phúc".
Đã có rất nhiều hiệu trưởng, giáo viên tại Việt Nam đang tìm kiếm những cách thức và giải pháp để giảm bớt áp lực trong nhà trường, hỗ trợ giải quyết vấn đề bạo lực học đường, hướng tới xây dựng môi trường học tập an toàn, yêu thương, tôn trọng, được hiểu và được ghi nhận vì mục tiêu phát triển con người sáng tạo và có nhân cách tốt.
Đó không chỉ là nhiệm vụ của các trường, mà phải là nhiệm vụ trọng tâm của cả ngành giáo dục.
Trường ại học Tây ô khai giảng năm học mới 2022-2023 Sáng 5-10, Trường Đại học Tây Đô tổ chức lễ khai giảng năm học mới 2022-2023. Năm học 2022-2023, trường tiếp tục tập trung thực hiện Luật Giáo dục đại học, đổi mới theo Nghị quyết số 29-NQ/TW; nâng cao năng lực, tập trung phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết...