Bài 73: TAND Tối cao quyết định đưa bị cáo Trịnh Ngọc Chung ra xét xử lần thứ 3
Sau 2 phiên tòa xét xử phúc thẩm bị cáo Trịnh Ngọc Chung trong kỳ án 194 phố Huế phải tạm hoãn, TAND Tối cao vừa có lịch đưa bị cáo này ra xét xử lần thứ 3 vào 8h sáng ngày 21/5 tại Phòng xét xử số 1, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao (262 Đội Cấn – Ba Đình). Gia đình 194 phố Huế cho biết đã nhận được giấy triệu tập và sẽ có mặt tại Tòa.
Theo đó, bị cáo Trịnh Ngọc Chung bị TAND Tối cao đưa ra xét xử do phạm tội “Ra quyết định trái pháp luật”. Tại phiên tòa sơ thẩm, dù bị cáo Chung bị đề nghị mức án 5 – 6 năm tù giam nhưng TAND TP Hà Nội tuyên bản án 30 tháng tù treo khiến dư luận bức xúc cho rằng đây là mức án quá nhẹ so với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
Từ đó, TAND Tối cao đã đưa bị cáo ra xét xử phúc thẩm 2 lần vào ngày 4/3/2015 và ngày 10/4/2015. Tuy nhiên, cả 2 phiên tòa này đều bị tạm hoãn do thiếu sự tham dự của gia đình 194 phố Huế và nhiều thành phần quan trọng khác trong vụ án.
Tại phiên tòa ngày 10/4, thẩm phán Lương Đức Chính kết luận: Dovắng 2 nhân chứng quan trọng, trong đó có Cục Thi hành án TP Hà Nội là đơn vị quản lý trực tiếp bị cáo Trịnh Ngọc Chung. Vụ việc vừa có đơn kêu oan của bị cáo Chung. Tuy nhiên lại vừa có những người liên quan là gia đình 194 phố Huế cho rằng là bị hại yêu cầu tăng hình phạt với bị cáo Chung, yêu cầu bị cáo Chung bồi thường thiệt hại. Vì vậy, quan điểm của HĐXX là quyết định hoãn phiên toà để triệu tập bằng được 2 đại diện VKSND TP Hà Nội, VKSND quận Hai Bà Trưng, Cục thi hành án TP Hà Nội trong phiên toà tới đây làm rõ vụ án.
Kỳ án 194 phố Huế với việc bị cáo Trịnh Ngọc Chung – Nguyên Chi cục trưởng chi cục thi hành án quận Hai Bà Trưng phạm tội “Ra quyết định trái pháp luật” đã khiến dư luận bức xúc trong suốt một thời gian dài. Liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án trái pháp luật với ngôi nhà 194 phố Huế, Cơ quan Điều tra Viện Kiểm s.át N.hân dân Tối cao đã ra Quyết định khởi tố bị can Trịnh Ngọc Chung về tội: “Ra quyết định trái pháp luật” quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự.
TAND Tối cao quyết định đưa bị cáo Trịnh Ngọc Chung ra xét xử lần thứ 3.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, dù bị cáo Chung kiên quyết chối tội và các luật sư của bị cáo gồm: Luật sư Ngô Ngọc Thủy, luật sư Nguyễn Trọng Tỵ, luật sư Bùi Quang Hưng đưa ra quan điểm bào chữa cho bị cáo nhưng đại diện Viện kiểm sát khẳng định đủ căn cứ truy tố xử lý bị cáo Trịnh Ngọc Chung ra trước vành móng ngựa để xét xử theo đúng qui định pháp luật với những dấu hiệu phạm tội đã được làm rõ sau quá trình điều tra.
Đại diện VKSND TP Hà Nội nhận định bị cáo Chung đã cố ý phạm tội đến cùng nên cần phải cách ly để giáo dục bởi tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng cho xã hội. Theo đó, căn cứ khoản 3, Điều 296 của Bộ Luật hình sự, đại diện VKSND TP Hà Nội đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Trịnh Ngọc Chung mức án từ 5-6 năm tù. Đồng thời bị cáo Chung phải bồi thường số t.iền hơn 6,6 tỷ đồng cho phía bị hại là gia đình 194 phố Huế.
Video đang HOT
Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, thẩm phán Ngô Tiến Phong đã thay mặt cho HĐXX TAND TP Hà Nội tuyên phạt bị cáo Trịnh Ngọc Chung mức án 30 tháng tù treo, mức án thấp hơn rất nhiều so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Sau phiên tòa sơ thẩm, sự bức xúc và phẫn nộ của dư luận cũng như sự bất bình của công luận với mức án được cho là quá “bèo” với Trịnh Ngọc Chung còn nóng bỏng trong một thời gian dài.
Cùng với nhiều cơ quan thông tấn báo chí thông tin sự việc, Báo Nhân dân đã có bài viết khẳng định “Một bản án thiếu sức thuyết phục” cho rằng “lý do làm cho dư luận bất bình là vì, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Trịnh Ngọc Chung mức án quá nhẹ so với hành vi phạm tội mà bị cáo này đã gây ra đối với hoạt động tư pháp và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”.
Cùng đó, nhiều điểm bất thường trong bản án 30 tháng tù treo với bị cáo Trịnh Ngọc Chung của TAND TP Hà Nội đã được các luật sư phân tích cụ thể.
Kỳ án 194 phố Huế khiến dư luận bức xúc.
Luật sư Trương Quốc Hòe – Trưởng văn phòng luật sư Interla nhận định: “Mặc dù tại phiên tòa bị cáo Trịnh Ngọc Chung chưa một lần nhận tội, thậm chí còn lớn tiếng tranh cãi với công tố viên về việc mình vô tội, nhưng sau đó HĐXX đã áp dụng điểm p, điểm s Khoản 1 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sự để l.àm t.ình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trong khi đó điểm p Khoản 1 Điều 46 quy định: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; điểm s Khoản 1 Điều 46: “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác. Do vậy, mặc dù bị cáo Trịnh Ngọc Chung bị VKSND Tối cao truy tố theo Khoản 3 Điều 296 Bộ luật Hình sự, theo tội danh này thì bị cáo có nguy cơ đối diện với mức án từ 5 đến 10 năm tù, và tại phiên tòa, vị công tố viên đã đề nghị HĐXX tuyên phạt Trịnh Ngọc Chung mức án từ 5 đến 6 năm tù và buộc phải cách ly với xã hội, nhưng cuối cùng HĐXX lại đã tuyên phạt bị cáo có 30 tháng tù, cho hưởng án treo”.
Cùng đó, tại phiên tòa, HĐXX lại xác định các thành viên của gia đình 194 phố Huế là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự thì gia đình 194 phố Huế chỉ có quyền kháng cáo bản án về các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại dân sự mà không có quyền kháng cáo đối với hình phạt của bị cáo. Thế nhưng, tại phiên tòa này, HĐXX đã tuyên tách phần bồi thường thiệt hại dân sự thành một vụ án khác, xét xử sau nếu gia đình 194 phố Huế có yêu cầu. Điều này đồng nghĩa với việc gia đình 194 phố Huế hoàn toàn không có quyền kháng cáo đối với bản án đã tuyên ngày 10/07/2014.
Dư luận một lần nữa chờ đợi bản án nghiêm minh, đúng quy định pháp luật của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao với bị cáo Trịnh Ngọc Chung.
Dân trí sẽ tiếp tục thông tin sự việc đến bạn đọc.
Anh Thế
Theo dantri
Kiểm sát viên “chạy án” được “tha” vì thành thật
Một kiểm sát viên ở tỉnh Cà Mau thú nhận tham gia "chạy án" nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ông Đàm Hoàng Vũ, Viện trưởng VKSND tỉnh Cà Mau, cho biết đã khai trừ ra khỏi Đảng một kiểm sát viên (KSV) ở tỉnh do dính líu đến một vụ "chạy án". Người này cũng bị VKSND Tối cao cách chức KSV và hiện chỉ làm công tác văn phòng.
Từ "dắt" mối
Trả lời của ông Vũ phần nào giải tỏa đồn đoán của dư luận địa phương nhiều năm qua về câu chuyện "chạy án" của ông Q., vốn là KSV của VKSND tỉnh Cà Mau. Theo tìm hiểu của phóng viên, vào tháng 3-2009, sau khi bị tố giác, ông Q. đã có bản tự kiểm đặc biệt với đầu đề "về việc giúp người khác "chạy án"".
Theo bản tự kiểm, trước đó ông Q. biết được việc ký quyết định bắt một bị can trong vụ án l.ừa đ.ảo t.iền qua mạng Colony Invest tại BV Đa khoa khu vực huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Lúc này ông Q. đang học một lớp cao cấp chính trị thì được một người học cùng lớp là ông C. (là phó chủ tịch UBND một huyện của Cà Mau) dò hỏi rồi nhờ giúp vì trước đây ông C. được bị can trên cho 500 điểm để tham gia vào mạng (sau này bị kết luận là mạng l.ừa đ.ảo - NV). Vì vậy, nếu lỡ công an điều tra thì rất kẹt. Nghe vậy, ông Q. nhận lời và giới thiệu ông C. với một KSV khác để tiếp tục làm việc với một số cảnh sát điều tra vụ án. Tới đó, ông Q. cho rằng đã hết trách nhiệm và sau đó được ông C. thông báo "chuyện đã được giải quyết xong".
Đến "chạy án"
Khoảng hai tháng sau, ông C. lại chủ động nhờ ông Q. tìm cách giúp bị can trên được nhẹ tội. Ông Q. nói bản thân không giúp được gì nhưng có quen Thẩm phán M. và sẽ nhờ xem sao. Nói là làm, ông Q. gặp Thẩm phán M. thì được đáp rằng "giúp được nhưng phải đưa trước một số t.iền làm tin". Bởi nhiều vụ ông M. đã giúp xong người ta không đưa t.iền làm mất uy tín. Thông tin được tải đến ông C. và sau đó ông C. "nối" ông Q. với vợ bị can (là bà Th.). Từ đó, ông Q. và bà Th. bắt đầu giao dịch t.iền bạc.
Cụ thể, bà Th. đưa cho ông Q. 5 triệu đồng nhưng Thẩm phán M. chê ít không nhận. Sau đó bà Th. đưa tiếp 6 triệu đồng (trong đó có 1 triệu đồng để ông Q. làm chi phí "giao dịch"). Nhận 10 triệu đồng, Thẩm phán M. hứa sẽ giúp xử nhẹ tội. Sau đó ông Q. nói được nhận thêm khoảng 6 triệu đồng nữa, gồm 3 triệu đồng là t.iền chi phí giao dịch lo "chạy án" và 3 triệu đồng "làm quà" để xin lãnh đạo VKS tỉnh cho bị can tại ngoại. Tuy nhiên, khi thấy thái độ của lãnh đạo VKS tỉnh cứng rắn, ông Q. không dám đưa và mang "quà" trả lại cho bà Th.
Sau nhiều lần hối thúc việc xin cho chồng được tại ngoại không thành, bà Th. đổi ý, kiếm ông Q. đòi lại t.iền. Tuy nhiên, ông Q. không "níu" được thẩm phán nên đã dùng t.iền túi trả lại. Lúc này, tổ công tác của VKS tỉnh phát hiện, làm việc về dấu hiệu "chạy án".
Thành thật nên không truy cứu
Bản tường trình dài năm trang A4 của ông Q. kể tường tận sự việc, thể hiện được sự chủ động của ông trong việc thông tin, gợi ý và "dắt mối" cho các bên gặp nhau. Ông Q. nêu chi tiết địa điểm nhận t.iền (tổng cộng là 17 triệu đồng) tại các quán cà phê nhưng cho rằng không hưởng thụ đồng nào mà đưa 10 triệu đồng cho thẩm phán, trả lại người chạy 3 triệu đồng và phần còn lại là chi phí (mua card điện thoại cho người khác, dẫn nhiều người đi ăn nhậu).
Sự kiện "chạy án" này được râm ran đồn đoán trong thời gian qua. Phóng viên Pháp Luật TP.HCM cũng đeo bám song chỉ được trả lời đang chờ ý kiến của VKSND Tối cao. Đến ngày 7-5, ông Đàm Hoàng Vũ, Viện trưởng VKSND tỉnh Cà Mau, đã thông tin chính thức với chúng tôi về sự vụ trên và ra các quyết định xử lý ông Q. như đã nêu.
Trả lời câu hỏi vì sao không xem xét dấu hiệu của hành vi hối lộ hay môi giới hối lộ, ông Vũ nói: "Chúng tôi đã xác minh và báo cáo toàn bộ sự việc về VKSND Tối cao. Sau đó chúng tôi được phản hồi là xử lý kỷ luật ông Q. như đã nói và không có đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hơn nữa, số t.iền ông Q. nhận cũng không lớn, việc "chạy án" cũng chưa thực hiện được và ông Q. đã có thái độ thành thật, ăn năn hối cải. Do vậy, ông Q. chỉ dừng lại ở mức độ kỷ luật như vậy và chúng tôi xét thấy là vừa".
Đưa, nhận, môi giới hối lộ đều có cả Qua bản tự "giúp người khác "chạy án"" của ông Q. cho thấy sự việc vi phạm mang tính tổ chức nên cơ quan chức năng cần phải làm cán bộ tòa án có nhận 10 triệu đồng hay không? Nếu có thì hành vi này đã có dấu hiệu của các tội nhận hối lộ (Điều 279), đưa hối lộ (Điều 289), làm môi giới hối lộ (Điều 290)... được quy định trong Bộ luật Hình sự. Ý thức chủ quan của bà Th. mong muốn chồng bà được xử nhẹ và được tại ngoại nên đưa t.iền nhiều lần. Hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ nên bà Th. phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn tình tiết "trước nhờ, nay thôi và đòi t.iền lại" là do nguyên nhân ngoài ý muốn hoặc tự ý chấm dứt hành vi phạm tội nên tình tiết này sẽ được xem xét giảm nhẹ. Luật sư TRẦN THỊ ÁNH, Văn phòng luật sư Nguyễn Thanh Lương (quận 2, TP.HCM)
Theo TRẦN VŨ
Pháp luật TP Hồ Chí Minh
Bài 13: Hết hạn “tối hậu thư”, 12 hộ dân ngập trong ô nhiễm chưa được “giải cứu” UBND TP. Hà Nội ra "tối hậu thư" yêu cầu quận Ba Đình thực hiện việc xác định nguyên nhân ô nhiễm và "giải cứu" cụm dân cư 146 phố Quán Thánh trước ngày 30/4/2015, nhưng đến nay 12 hộ gia đình vẫn mỏi mắt chờ đợi trong cảnh ô nhiễm, xú uế. Sau loạt bài của báo Dân trí phản ánh tình...