Bà giáo 82 tuổi vẫn đứng lớp
Sau khi nghỉ hưu ở Khoa Toán thống kê, ĐH Kinh tế TP.HCM, cô Đàm Lê Đức (hiện 82 tuổi) vẫn miệt mài trên bục giảng cho đến nay, chỉ khác là cô không dạy về toán mà dạy về đức dục.
Cả lớp 10A (Trường THCS-THPT Đức Trí, TP.HCM) chưa hết ngạc nhiên, bà giáo già đã mở đầu bài dạy: “Hôm nay, cô xin phép giáo viên chủ nhiệm để dạy cho các con hai tiết về đức dục. Bài dạy của cô gồm ba phần: hiếu thảo với cha mẹ, lễ nghĩa với thầy cô và thân ái với bạn bè”. Mới nghe đến đây, một số học sinh đã nhún vai, lắc đầu…
Nhìn thấy điều đó, cô Đức vào đề rất nhanh: “Tại sao phải hiếu thảo với cha mẹ? Các con, có ai nói cho cô biết công lớn nhất của cha mẹ là gì? – “Là sinh thành cô ơi” – “Đúng rồi, chúng ta không phải tự nhiên sinh ra. Từ khi mới là giọt máu trong bụng mẹ, các con đã làm cho cả nhà phải khổ: người mẹ ăn vào thì nôn ra, đêm ngủ thì trằn trọc canh trường, không ngon giấc. Khi người mẹ xanh xao, vàng vọt, khó ở thì người cha làm mọi việc thay cho mẹ, chăm sóc, động viên mẹ… Khi con lớn dần trong bụng thì người mẹ khệ nệ, nóng nực, đi lại khó khăn…”.
Năm nay 82 tuổi, cô Đàm Lê Đức vẫn miệt mài trên bục giảng dạy về đức dục.
Tiết học xúc động
“Bây giờ cô hỏi các con: Các con đeo ba lô trên vai một ngày có khó chịu không?”, cả lớp đồng thanh: “Dạ có” – “Thế mẹ của chúng ta mang chúng ta trong bụng bao nhiêu ngày?” – “Dạ, chín tháng 10 ngày” – ” Từng ấy ngày khó chịu và mệt nhọc rồi đến lúc sinh chúng ta ra còn phải đau đớn tột cùng…”. Rồi bà kết luận: “Kẻ nào không yêu cha mẹ sẽ không yêu được bất kỳ ai các con ạ”. Không khí cả lớp lúc này bắt đầu chùng xuống, một vài học sinh trước đó lơ là bây giờ ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn lên bảng…
Video đang HOT
“Nào! Các con hãy cho cô biết: Công ơn thứ hai của cha mẹ là gì?”. Cả lớp đồng thanh: “Dạ, nuôi nấng” – “Kể từ khi sinh ta ra, nuôi ta lớn lên cha mẹ ta hao tổn tinh thần, tốn kém vật chất, đau đớn về thể xác, không ai kể xiết. Bây giờ, 1kg gạo, 1kg thịt giá bao nhiêu các con có biết không?”, cô Đức hỏi. Cả lớp lặng thinh. Giọng bà giáo sang sảng: “Phải mất rất nhiều gạo và thịt thì các con mới lớn được như hôm nay. Chim trời ai dễ đếm lông/ Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày. Các con có nhớ cái tuổi lên ba, lên năm cha làm ngựa cho con cưỡi, tập cho con đi những bước chập chững đầu tiên… Có bao giờ các con nghĩ đến việc không còn cha còn mẹ không? Cha mẹ không sống đời với ta đâu. Các con có cha mẹ bằng xương, bằng thịt bên cạnh là hạnh phúc lắm rồi. Cha mẹ qua đời thì ta cô đơn lắm, mất cha, mất mẹ là mất cả cuộc đời đấy các con ạ”.
Xen lẫn với giọng sang sảng của bà giáo già, tiếng sụt sịt từ dưới lớp bắt đầu nổi lên, ngay cả một số học sinh nam cũng lấy tay quệt nước mắt…
Giảng bài là hết mệt
82 tuổi, giảng một lèo hai tiết đức dục mà không cần nghỉ ngơi. Sau khi bước ra khỏi lớp 10A, cô Đàm Lê Đức vẫn sang sảng: “Ngay từ khi còn là giảng viên Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, từ năm 1985 tôi đã thành lập cơ sở bồi dưỡng văn hóa ngoài giờ. Với đối tượng học sinh phổ thông, ngoài dạy chữ phải dạy làm người. Vì thế, mặc dù chỉ là những lớp học thêm nhưng học sinh ở trung tâm đều phải học từ bốn – tám tiết đức dục và trí dục/năm học. Và tôi trực tiếp đứng lớp”.
Sau này, số lượng học sinh ngày càng đông, cô Đức không trực tiếp giảng dạy được tất cả học sinh mà giao bớt cho giáo viên bộ môn giáo dục công dân đảm nhiệm. Tùy theo cấp lớp mà tiết đức dục và trí dục có những nội dung khác nhau, nhưng tựu trung bao gồm các chuyên đề: văn hóa ứng xử của học sinh trong gia đình – nhà trường – xã hội, tích cực phát huy tinh thần tự học để trở thành học sinh giỏi, tự học qua cách học ở thầy, ở bạn, ở sách…
Từ năm 2010, cô Đức sáng lập Trường THCS – THPT Đức Trí: “Bây giờ, tôi vẫn trực tiếp giảng dạy đức dục và trí dục ở tất cả các lớp ở Trường Đức Trí (học sinh vẫn học môn giáo dục công dân theo chương trình của Bộ GD-ĐT) và khối 11, 12 tại cơ sở 218 Lý Tự Trọng. Bài dạy đức dục và trí dục bây giờ đã có giáo trình chung cho các giáo viên sử dụng. Điều quan trọng nhất là sau bài dạy, học sinh sẽ viết bài thu hoạch. Từ những bài này, mình mới nắm được tâm tư, tình cảm của các em” – cô Đức cười rất tươi.
Hỏi tại sao không giao hết cho giáo viên bộ môn giáo dục công dân đảm nhiệm, cô Đức nghiêm mặt: “Niềm vui của tôi là đứng trên bục giảng mà. Đúng là lớn tuổi mà giảng một lúc hai tiết dễ bị khan giọng, nhưng cứ vào lớp, đứng trên bục giảng là tôi hết mệt”.
Theo Anh Quân
Phụ nữ TPHCM
Dạy - học môn ngữ văn: Thiếu thiết thực, thiếu cả văn chương
Lười, ngại, chán học môn Ngữ Văn là thực trạng được "rung chuông" nhiều năm nay, tiếp tục được mô tả trong hội thảo quốc gia về dạy học môn Ngữ Văn tổ chức tại Huế ngày 5/1, như một vết đau chưa có thuốc chữa trị.
Cách dạy văn hiện nay khiến học sinh không cảm nhận được vẻ đẹp văn chương.
Không học được gì thì học ban C?
Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống - Phó Vụ trưởng Vụ GD Trung học, Bộ GD&ĐT, căn cứ số liệu thống kê thì môn Ngữ Văn đang bị tuyệt đại đa số học sinh phổ thông chối bỏ. Chẳng hạn số lượng học sinh đăng ký học và thi ban Xã hội & Nhân văn (còn được gọi là ban C) ngày càng ít đi. Đã vậy, chất lượng lại không cao khi phần lớn các em học ban này chỉ vì không đủ năng lực theo học các ban khác. Trong khi đó, rất nhiều học sinh ban Khoa học Tự nhiên (thi khối A và D) rất giỏi văn.
"Gần 100% học sinh THPT chỉ cần học văn để thi đỗ tốt nghiệp mà thôi", ông Thống nói. Tuy nhiên, ông Thống cũng cho rằng thực trạng trên không chỉ là hệ quả của việc dạy học văn trong nhà trường hiện nay mà còn do nhiều tác động từ bối cảnh xã hội. Chính vì vậy nó là một thách thức cho hoạt động này trong tương lai.
Môn văn đang trở nên khô khan, cứng nhắc.
Gần đây Sở GD&ĐT Bình Thuận khảo sát ở 24 trường THCS và 26 trường THPT trong toàn tỉnh. Họ thu được những kết quả đáng lo ngại: Mặc dù có sự động viên, hướng dẫn, khuyến khích của giáo viên nhưng văn hóa đọc không còn là phương thức chính tiếp nhận giá trị tác phẩm văn học của học sinh. Văn hóa nghe nhìn thu hút mạnh mẽ các em (chiếm tỉ lệ trên 85%).
"Học sinh trung học có thể chăm chú theo dõi liên tục cả chục tập phim truyện (trên mạng Internet hoặc trên TV) chứ không kiên nhẫn ngồi đọc hết một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang trở lên.
Học sinh có thể vào mạng hàng giờ tìm kiếm những thông tin mới lạ theo sở thích chứ không kiên nhẫn ngồi đọc hết một tập truyện ngắn nếu truyện ngắn đó không có nội dung gắn với tâm lý lứa tuổi. Số lượng ham thích đọc truyện chiếm tỉ lệ rất thấp.
Không ít học sinh THPT vẫn còn mê đọc truyện tranh, xem phim hoạt hình. Thực trạng đó làm lệch hướng, quay ngược nhau giữa người học và người dạy", thầy Võ Văn Tám, Sở GD&ĐT Bình Thuận chia sẻ.
Đáng chú ý, kết quả khảo sát trên mâu thuẫn với những nhận định tổng quát về mục tiêu của chương trình môn Ngữ Văn hiện hành. Nhiều chuyên gia cho rằng, cái mới mà các tác giả soạn thảo chương trình môn Ngữ Văn được triển khai đại trà từ sau năm 2002 đưa vào được trong chương trình này là tư tưởng đọc - hiểu.
Theo đó, mục tiêu hướng tới của chương trình là không chỉ cung cấp kiến thức mà còn hình thành cho học sinh năng lực tự đọc, tự học, tự tiếp nhận văn học nói riêng và văn bản nói chung.
"Tuy nhiên tư tưởng và phương pháp đọc - hiểu nhìn chung mới dừng lại ở nhận thức là chính. Trong thực tế dạy học tư tưởng đó chưa được hiện thực hóa một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả", PGS.TS Đỗ Ngọc Thống nhận xét.
Nhiều giờ văn "cưỡi ngựa xem hoa"
GS Trần Đình Sử (giữa), người phụ trách nhóm làm chương trình môn Ngữ Văn cấp THPT hiện hành, trao đổi với các đại biểu.
Tại hội thảo, nhiều nguyên nhân được đưa ra nhằm giải thích cho thực trạng trên, trong đó nội dung chương trình - SGK. Chương trình - SGK hiện hành được tập trung phân tích mổ xẻ nhiều cũng bởi đang là giai đoạn Bộ GD&ĐT soạn thảo Đề án đổi mới chương trình và SGK sau năm 2015, và đây chính là lý do quan trọng số một để Bộ GD&ĐT tổ chức hội thảo này.
Theo GS.TS Lê A, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, một trong những cái dở của chương trình hiện hành là tính thiết thực, phục vụ cuộc sống của chương trình và SGK môn Ngữ Văn hiện nay còn yếu. Ví dụ, từ lớp 10 đến lớp 12 học sinh phải học tổng cộng 94 tiết Làm văn nhưng trong đó chỉ có 5 tiết dạy học nói.
"Giờ Tập làm văn miệng thường thất bại. Nên chăng tách dạy nói và dạy viết thành hai mạch riêng như một số nước trên thế giới đã và đang làm?", GS TS Lê A nói.
Mục tiêu không được xác định chính xác và sự ôm đồm cũng được cảnh báo. Sự ôm đồm gây quá tải biểu hiện ở nhiều yếu tố: thời lượng, số lượng tác giả, tác phẩm được đưa vào chương trình, tính vừa sức - vừa tầm đón nhận đối với học sinh.
Có những tác phẩm dù rất có giá trị văn chương nhưng lại trở thành gánh nặng với học sinh và cả người dạy. Vì áp lực quá tải, giáo viên phải chấp nhận từ bỏ những cuộc giao tiếp văn chương đúng nghĩa trên lớp để đạt được mục tiêu bài học.
Những giờ dạy - học văn thành những giờ "lao động" thay vì những giờ đối thoại giữa thầy và trò trong không khí thù tạc, đàm đạo văn chương. "Chính sự quá tải như thế mà rất nhiều giờ văn kiểu cưỡi ngựa xem hoa phần nào tước mất sự hứng thú và say mê của học sinh.
Giáo viên khó mà tạo được sự lắng đọng, những ấn tượng văn chương ở các em qua những giờ văn như thế. Cả thầy và trò đều phải chạy đua với thời gian để hoàn thành kế hoạch dạy học, để đối phó với thi cử", cô Bùi Thị Kim Duyên, giáo viên trường THPT chuyên Nguyễn Quang Diệu, tỉnh Đồng Tháp chia sẻ.
Theo Tiền Phong
Siết liên thông gây khó cho người học? Từ ngày 7/2/2013, quy định mới về đào tạo liên thông trình độ CĐ, ĐH vừa được Bộ GD-ĐT công bố sẽ có hiệu lực. Đồng ý với tinh thần siết chặt và nâng chất lượng đào tạo liên thông nhưng theo lãnh đạo một số ĐH, việc SV phải thi ĐH, CĐ như học sinh phổ thông là "vô vọng", khó thực...