Ác mộng có thể là dấu hiệu của bệnh Parkinson
Những giấc mơ kinh hoàng vào buổi đêm có là một trong những dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh Parkinson, theo các nhà khoa học.
Những giấc mơ kinh hoàng vào buổi đêm có là một trong những dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh Parkinson, theo các nhà khoa học.
Những người mà kêu la hay khóc lóc trong khi ngủ có thể mắc bệnh này 1 vài năm sau đó.
Các chuyên gia đã phát hiện ra rằng những người bị bệnh “Rối loạn giấc ngủ REM” – bao gồm mơ ác mộng và bất ngờ vận động trong khi ngủ – thường dễ mắc bệnh Parkinson và các bệnh mất trí nhớ khác.
REM hay chuyển động mắt nhanh là một giai đoạn ngủ mơ. Những người ngủ bình thường thì mắt nằm im trong suốt giai đoạn này bởi vì não đã ngừng hoạt động cho phép cơ thể nghỉ ngơi hoàn toàn. Nhưng điều này không xảy ra với những người bị rối loạn REM, họ thường xuyên gặp những cơn ác mộng.
Các nhà khoa học ở Barcelona đã phát hiên ra rằng những người bị trên 60 ngủ mơ ác mộng sẽ mắc bệnh Parkinson và 1 số bệnh khác liên quan đến mất trí nhớ.
Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Lancet Neurology cho thấy rối loạn giấc ngủ có thể là một trong những dấu hiệu đầu tiên của các bệnh ở não.
Điều này có thể giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh sớm hơn và bệnh nhân sớm được điều trị hơn.
Video đang HOT
Nhóm nghiên cứu do BS Alex Iranzo, khoa Thần kinh, TT Y tế Barcelona, làm trưởng nhóm. Nghiên cứu đã theo dõi 43 bệnh nhân ở độ tuổi ngoài 60 và mắc chứng rối loạn giấc ngủ REM. Họ nhận thấy 30% trường hợp mắc dạng rối loạn thần kinh sau khi gặp được chẩn đoán là có vấn đề về giấc ngủ 2-2,5 năm và hầu hết là bệnh Parkinson.
Những người bị bệnh Parkinson không có đủ hợp chất dopamine bởi vì 1 số tế bào thần kinh trong não của họ đã chết. Không có dopamine, hoạt động trí não bị chậm lại và trí nhớ mất dần.
Theo SKDS
Bệnh Parkinson ở người cao tuổi
Bệnh parkinson còn gọi là bệnh liệt rung, là bệnh do suy thoái chức năng của hệ thống thần kinh. Bênh thường gặp ở người trên 50 tuổi và đa số là đàn ông, với tỷ lệ mắc bệnh là 1/500.
Người mắc bệnh Parkinson thường gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và có thể dẫn đến trầm cảm.
Nguyên nhân
Hiện nay y học vẫn chưa biết rõ nguyên nhân gây ra bệnh Parkinson, nhưng nhận thấy ở người mắc bệnh, hàm lượng dopamin trong cơ thể giảm đi đáng kể!
Dopamin là chất dẫn truyền thần kinh thuộc nhóm catecholamin (gồm có: dopamin, noradrenalin, adrenalin) tập trung nhiều ở vùng hạch đáy (basal ganglia) của não. Dopamin đóng vai trò quan trọng trong việc cử động và phối hợp các động tác của cơ thể. Khi các tế bào sản sinh ra dopamin bị thoái hoá hay chết đi, gây nên sự thiếu hụt dopamin trong cơ thể và đây chính là yếu tố nguy cơ gây ra bệnh parkinson.
Ngoài ra còn có một số yếu tố thuận lợi như:
- Thường tiếp xúc với thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ.
- Có tiền sử về chấn thương vùng đầu, viêm não.
- Có bệnh xơ vữa động mạch...
Triệu chứng
Các triệu chứng của bệnh Parkinson thường diễn tiến kéo dài:
- Lúc đầu bị run ở một tay, sau lan ra ở chân cùng bên rồi dần dần run ở cả hai bên.
- Người bệnh thường có tư thế cứng đờ, chậm chạp, khuôn mặt vô cảm, dáng đi khom về phía trước, hay mất thăng bằng.
- Người bệnh gặp khó khăn khi viết chữ, tâm trạng lo lắng thường dẫn đến trầm cảm.
Điều trị
Hiện nay y học vẫn chưa có thể trị hết bệnh Parkinson nhưng giúp ngăn chặn quá trình phát triển bệnh qua các phương pháp sau:
Phương pháp vật lý trị liệu:
Trong giai đoạn đầu của bệnh
Parkinson, viêc ap dun g phương phap vật lý trị liệu giúp cải thiện đáng kể khả năng vận động và nâng đỡ về mặt tinh thần cho bệnh nhân.
Phương pháp dùng thuốc:
Levodopa: đây là thuốc chủ yếu dùng để điều trị bệnh Parkinson và RLS. Việc sử dụng levodopa sẽ giúp cho người bệnh giảm bớt những triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Levodopa là tiền chất của dopamin. Khi vào cơ thể, levodopa vượt qua được hàng rào máu não và chuyên hoá than h dopamin (dopamin không vượt qua được hàng rào máu não nên không thể sử dụng trực tiếp).
Tuy nhiên ở ngoại biên, levodopa bị các enzym decarboxylase chuyển hóa thành dopamin, nên levodopa thường được phối hợp với các chất ức chế enzym này như carbidopa, benserazid với các chế phẩm như: sinemet (levodopa carbidopa), madopar (levodopa benserazid). Đê tăng hiêụ qua điêu trị, levodopa thường được phối hợp với các thuốc sau đây:
- Amantadin là thuốc điều trị virut cúm týp A2 nhưng còn đuợc sử dụng trong điều trị bệnh Parkinson.
Amantadin giúp kích thích sự phóngthích dopamin nội sinh.
- Các thuốc chủ vận dopamin (dopamine agonists) gồm cóbromocriptin, pergolid, pramipexole...kích thích trực tiếp lên các thụ thểdopaminergic.
- Các thuốc kháng tiết cholin: gồm có trihexyphenidyl, benzatrophine, procyclidine... Hiện nay các thuốc này ít được sử dụng trong điều trị bệnh Parkinson.
Phương pháp ngoại khoa Phương pháp ngoại khoa được sử dụng khi các phuwong pháp trên không mang lại hiệu quả điều trị như mong muốn. Việc phẫu thuật não sẽ cải thiện đáng kể các triệu chứng run, cứng đơ... của người mắc bệnh Parkinson.
Theo SKDS
Tin vui cho bệnh nhân Parkinson Căn phòng nhỏ chỉ có hai người. Trên giường là một nữ bệnh nhân vừa trò chuyện với chồng, vừa cố gắng gồng cả thân thể để áp chế sự hoạt động liên tục của tứ chi. Người chồng thấy vợ "khua chân, múa tay" quá khổ sở, ông tiến đến định giúp bà. Nhưng người vợ xua tay: bà muốn tự mình...