70% công việc có nguy cơ bị thay thế, giáo dục phải thay đổi
Theo các chuyên gia, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi cơ cấu lao động, nhân sự nhiều ngành nghề bị đe dọa. Việc đào tạo buộc phải thay đổi từ chương trình đến phương pháp, nếu không sẽ bị tụt hậu rất xa.
Sinh viên ngành cơ khí Trường ĐH Nguyễn Tất Thành thực hành tại xưởng của trường. Ảnh: M.G.
Tại hội thảo giáo dục trong thời đại 4.0 do Trường ĐH Công nghệ Sài Gòn tổ chức mới đây, nhiều ý kiến từ các chuyên gia giáo dục cho rằng Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực từ cuộc cách mạng này.
Có nhiều nguyên do xuất phát từ cơ cấu kinh tế, sử dụng lao động, và đặc biệt là việc đào tạo hiện nay của các trường chưa bắt kịp xu thế của khu vực và thế giới.
Nguy cơ thất nghiệp cao
Theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế vào tháng 7-2016, khoảng 70% vị trí công việc tại Việt Nam có nguy cơ cao bị thay thế bởi tự động hóa. Con số này thấp hơn Trung Quốc (75%) nhưng lại cao hơn nhiều so với Singapore (35%), Thái Lan (45%), Philippines (50%)…
Ước tính có khoảng 86% lao động trong các ngành dệt may – da giày và 75% lao động trong ngành điện tử của Việt Nam có thể phải đối mặt với nguy cơ tự động hóa cao do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật.
Trong khi đó, theo báo cáo của Tổng cục thống kê, tính đến hết năm 2016, Việt Nam có gần 55 triệu lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên. Trong số này, chỉ có 7,8 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 15,5%. Như vậy cả nước có đến 84,5% số người làm việc chưa qua đào tạo.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Năng suất lao động của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, tăng bình quân 3,5%/năm nhưng vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực.
Ông Phạm Ngọc Hòa – Học viện chính trị khu vực IV – cho biết Canon, một nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ lâu đã tiến hành cải tiến máy móc, công nghệ. Sau gần 8 năm cải tiến, số lao động trực tiếp tại nhà máy giảm từ 13.000 xuống chỉ còn 8.000 trong khi lợi nhuận vẫn giữ nguyên. Như vậy có đến 5.000 lao động đã bị thay thế bởi máy móc.
“Lực lượng lao động chưa qua đào tạo của Việt Nam còn rất nhiều. Việc sở hữu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng công nghệ thông tin và sáng tạo vẫn còn rất hạn chế. Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với lao động Việt Nam”, ông Hòa nói.
Trong khi đó, ThS Trần Thị Thu Hà – Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp – cho rằng chuyển dịch cơ cấu lao động trong gần 30 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trình độ tay nghề của người lao động thấp là trở ngại lớn nhất để chúng ta bắt kịp với các thành tựu khoa học – công nghệ hiện nay và ứng dụng hiệu quả khoa học – công nghệ cũng là một vấn đề nan giải.
Video đang HOT
“Trong tương lai, nhiều lao động trong các ngành, nghề của Việt Nam có thể thất nghiệp, ví dụ như lao động ngành nông nghiệp, dệt may, kế toán, lắp ráp và sửa chữa thiết bị.
Trong khi đó, số lao động này hiện đang chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong lực lượng lao động của nước ta hiện nay. Có thể nói chắc chắn rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đe dọa lao động kỹ năng thấp và một số công việc như hành chính, văn phòng…” – bà Hà nói thêm.
Đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 là trách nhiệm của ngành giáo dục – đào tạo.
Nhiều lĩnh vực kinh tế và ngành nghề mới xuất hiện như chế tạo robot, tự động hóa, phương tiện không người lái, năng lượng tái tạo, trợ lý ảo, điện toán đám mây… Tuy nhiên, giáo dục ĐH và nghề nghiệp của Việt Nam vẫn đang chậm đổi mới trong sân chơi này.
Ông Liêu Quang Hiệp – Trường CĐ Kinh tế kỹ thuật TP.HCM – cho rằng cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ đặt ra những yêu cầu mới về kiến thức kỹ năng và tâm thế của người lao động.
Các kiến thức kỹ năng bao gồm tư duy hệ thống, phản biện, kỹ năng thích nghi, sáng tạo; nhóm kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng số, kết nối và nhóm kỹ năng giao tiếp, làm việc theo nhóm.
“Việc áp dụng tổng hòa kiến thức kỹ năng và tâm thế đổi mới sáng tạo quan trọng hơn nhiều so với những kiến thức, kỹ năng chuyên biệt trước đây. Đây cũng là những yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo trong việc tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới”, ông Hiệp cho biết thêm.
Đào tạo phải thay đổi
Theo bà Huỳnh Thị Phương Thúy – Trường ĐH Văn Lang – Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Muốn hòa nhập xu thế 4.0, yếu tố then chốt là nguồn lực. Giáo dục Việt Nam cần phải có những đổi mới tương ứng.
Nói về chương trình đào đạo các trường ĐH, CĐ Việt Nam hiện nay, PGS.TS Đinh Đức Anh Vũ – ĐHQG TP.HCM – cho rằng chương trình của các cơ sở đào tạo Việt Nam hiện nay vẫn chưa linh hoạt, nội dung chưa phù hợp với xu thế thị trường lao động cách mạng công nghiệp 4.0.
“Trong cuộc cách mạng này, giáo dục nghề nghiệp phải cập nhật nhanh chóng nghề đào tạo và chương trình sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục”, ông Vũ nói.
Đồng quan điểm, ThS Trần Thị Thu Hà đề xuất mở rộng đào tạo các ngành, nghề mới hoặc bổ sung, cập nhật các kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu kỹ thuật, công nghệ, dịch vụ của công nghiệp 4.0 trong chương trình đào tạo các trình độ giáo dục nghề nghiệp.
Trong khi đó, TS. Nguyễn Chí Trường – Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh viên Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp – đề xuất cần phải kịp thời đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, giảng viên, đặc biệt là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ, tin học đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực trực tiếp phục vụ sự chuyển dịch của nền sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong bối cảnh công nghiệp 4.0.
Bà Huỳnh Thị Phương Thúy cho rằng các trường cần phải thay đổi chương trình đào tạo theo hướng liên ngành cao với những kiến thức cơ bản rộng, lồng ghép các ngành học về trí tuệ nhân tạo, đẩy mạnh ứng dụng internet.
Các trường cũng phải xây dựng đồng bộ hạ tầng thông tin, triển khai mô hình trường học thông minh, áp dụng các mô hình học tập mới như phòng học ảo, thư viện ảo, tăng cường hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp…
Để cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ông Dương Đình Dũng – Trường CĐ Kinh tế kỹ thuật TP.HCM – đề xuất trước tiên các trường cần phải xác định lĩnh vực đào tạo hướng về tương lai, dạy những gì đáp ứng cho thị trường và dạy cái sẽ dùng.
Ngoài việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đổi mới mô hình nhà trường, việc tăng cường đào tạo kỹ năng mềm là điều tối quan trọng phải trang bị cho người học.
Đào tạo và đào tạo lại thích ứng cách mạng 4.0
Giáo dục nghề nghiệp (CĐ, trung cấp, nghề) là một trong những bậc đào tạo chịu ảnh hưởng nhiều nhất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ông Nguyễn Hồng Minh – Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) – cho biết hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang xây dựng Đề án thí điểm đào tạo, đào tạo lại người lao động thích ứng với cuộc cách mạng 4.0, trong đó tập trung vào một số giải pháp chính.
Thứ nhất, đổi mới quản lý GDNN, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Thứ hai, đổi mới chương trình, tổ chức hoạt động đào tạo. Cụ thể, sẽ xây dựng thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến; khuyến khích các cơ sở GDNN xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong dạy học cho các cơ sở GDNN.
Thứ ba, nâng cao năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý GDNN. Giải pháp thứ tư là gắn kết với doanh nghiêp trong hoạt động đào tạo. Đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp.
Theo tuoitre.vn
Học gì để bắt kịp Cách mạng công nghệ 4.0?
Dưới ảnh hưởng sâu rộng của cách mạng công nghệ 4.0, sỹ tử cần phải nắm được những tiêu chí nào để đưa ra lựa chọn trường và ngành nghề đúng đắn, để không bị "tụt hậu" hay thiếu kỹ năng để thành công trên thị trường lao động.
Tiêu chí để chọn trường, chọn ngành đón đầu xu thế để thành công
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang gõ cửa từng nhà, dẫn tới sự thay đổi nhanh chóng ở mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tác động rõ rệt nhất là sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo, với tính năng có thể thay thế con người, thậm chí còn tối ưu hơn như khả năng tính toán, phân tích, ghi nhớ, sức lao động bền bỉ và năng suất cao.
Nói cách khác, cách mạng 4.0 sẽ loại bỏ các công việc phổ thông và gia tăng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng nghiên cứu, sáng tạo, biết làm chủ máy móc và thực hiện các công việc đòi hỏi tư duy phức tạp mà robot hay trí thông minh nhân tạo không thực hiện được.
Trong guồng quay đó, các trường đại học một mặt cần thực hiện các bước chuyển mình quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, mặt khác còn cần tập trung đào tạo các ngành được coi là "xương sống" trong cuộc đại cách mạng 4.0, trong đó không thể bỏ qua các ngành khoa học và công nghệ điển hình như công nghệ thông tin- truyền thông, công nghệ Nano, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ - hàng không...
Các chương trình hợp tác quốc tế mang đến cho sinh viên cơ hội tiếp cận nền khoa học công nghệ mới để bắt kịp cách mạng 4.0.
Ngoài ra, nội dung chương trình đào tạo cần hướng tới phát triển toàn diện người học, vừa cung cấp kiến thức liên ngành vừa phát huy năng lực sáng tạo, tự chủ và rèn cho người học khả năng thích ứng nhanh. Riêng với các trường đào tạo về lĩnh vực khoa học và công nghệ phải tự ý thức được tầm quan trọng của việc cho sinh viên được cọ xát với thực tế và tiếp cận với nền khoa học, công nghệ của các quốc gia phát triển để mở rộng tầm nhìn và cập nhật công nghệ mới. Mục tiêu đào tạo sẽ chuyển dịch sang cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, thay vì đào tạo đại trà như trước đây.
Đây không chỉ là yêu cầu cấp thiết đối với các trường đại học mà còn trở thành tiêu chí giúp các sỹ tử đưa ra quyết định lựa chọn ngành và trường đúng đắn, nếu không muốn thất nghiệp, hay bị "robot" thay thế trong tương lai.
Con đường khó, nhưng "chất" của các trường đại học
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng nghĩa với việc các trường đại học phải đầu tư toàn diện để phát triển chương trình học: từ cơ sở vật chất, nội dung giảng dạy đến tuyển lựa sinh viên đầu vào. Nói cách khác, các trường đại học, thay vì chật vật tìm mọi cách tuyển cho đủ chỉ tiêu sẽ phải tập trung vào "chất lượng".Đây thực sự là bài toán khó trong bối cảnh các trường hiện nay đang phải chịu áp lực của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nếu làm được và thành công thì sẽ giúp các trường khẳng định vị thế và thương hiệu, từ đó quay trở lại hấp dẫn người học theo cách "hữu xạ tự nhiên hương".
Một ví dụ về trường đại học đang kiên trì theo đuổi con đường này là Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội - USTH (còn được gọi là trường Đại học Việt Pháp). Được thành lập theo mô hình trường công lập chuẩn quốc tế, trường xác định mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ vừa có kiến thức chuyên môn tốt, lại thành thạo ngoại ngữ và năng động nhằm đón đầu nhu cầu của thị trường lao động trong thời đại 4.0.
Để đạt được mục tiêu trên, thay vì mở nhiều ngành, tuyển sinh ồ ạt, mỗi năm USTH chỉ tuyển 400-500 sinh viên cho 13 ngành học mũi nhọn như công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học Nông Y Dược, Công nghệ thực phẩm, Năng lượng, Vật lý kỹ thuật và điện tử; Khoa học Vật liệu tiên tiến và Công nghệ Nano, Hóa học, Công nghệ Y tế, Vũ trụ và Ứng dụng, Nước - Môi trường - Hải Dương học...
Sinh viên ngành Công nghệ sinh học của USTH miệt mài học tập, nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm hiện đại.
Kèm theo đó, USTH lựa chọn ngôn ngữ giảng dạy và học tập 100% bằng tiếng Anh để rèn luyện cho sinh viên khả năng ngoại ngữ thành thạo, trong cả giao tiếp và chuyên môn. Đồng thời, bằng cách áp dụng phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm, sinh viên trở nên tự chủ, có tư duy linh hoạt và được trang bị kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, quản lý thời gian.
Một điểm khác biệt nữa cần phải kể đến chính là thời gian đào tạo hệ đại học chỉ kéo dài 3 năm do USTH áp dụng tiến trình Châu Âu Bolgona, ngắn hơn từ 1 đến 1,5 năm so với các trường đại học khoa học và công nghệ khác. Sinh viên nhờ vậy không bị rơi vào tình cảnh khi tốt nghiệp, kiến thức, công nghệ được học trong trường đã lỗi thời. Rõ ràng trong cuộc đua công nghệ, tốt thôi chưa đủ, nhanh cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu.
GS. Patrick Boiron, Hiệu trưởng USTH cho biết: "Trong thời đại 4.0 thì đào tạo phải gắn liền với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, thậm chí phải đón trước nhu cầu để điều chỉnh phát triển. Đó chính là lý do mà USTH luôn chú trọng mở rộng mạng lưới đối tác từ các trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Từ đây sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. Thực tế mỗi năm có tới 60% sinh viên năm cuối hệ đại học và 70% học viên hệ thạc sĩ của USTH đi thực tập tại các nước như Anh, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan... Mỗi chuyến đi thực tập là một lần sinh viên được rèn luyện trong môi trường chuyên nghiệp, tiếp cận với kiến thức, công nghệ mới để khi tốt nghiệp có thể đáp ứng ngay yêu cầu của nhà tuyển dụng."
Theo Dân trí
Ứng dụng công nghệ 4.0 để truyền cảm hứng trong giáo dục lịch sử Trong thời đại công nghệ 4.0, việc ứng dụng CNTT vào đổi mới giáo dục đang là xu thế tất yếu không thể đảo ngược ở nhiều quốc gia trên thế giới. Và ở Việt Nam, ngành giáo dục cũng cần phải thay đổi tư duy, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ, tận dụng tối đa mọi nguồn lực xã hội để có...