6000 nhà khoa học tham gia biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam
Khoảng 6.000 nhà khoa học cả nước đủ các chuyên ngành, lĩnh vực đang gấp rút biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam.
Khắc phục nhược điểm của Từ điển bách khoa
Tọa đàm “Triển khai biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam” vừa được tổ chức tại Trường ĐH Văn Lang.
PGS.TS Đinh Ngọc Vượng, Phó Tổng thư ký chuyên trách Đề án biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam, cho hay trong kho tàng thư tịch của Việt Nam thời Trung – Cận đại có nhiều bộ sách quý có tính bách khoa thư còn lưu truyền đến ngày nay. Trong đó hai bộ “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn (cuối thế kỷ 18) và “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (đầu thế kỷ 19) được xem là những bộ sách có tính bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam.
PGS.TS Đinh Ngọc Vượng (Ảnh: Tuệ Khánh)
Cách đây 17 năm, Việt Nam đã hoàn thành việc biên soạn và xuất bản Từ điển bách khoa Việt Nam, với sự tham gia của 1.200 nhà khoa học.
Tuy nhiên, theo PGS Vượng, từ điển chỉ là gốc ban đầu của bách khoa toàn thư. “Từ điển” chỉ có các từ và giải nghĩa các từ, đưa thông tin tối thiểu cho người đọc về từ đó. Vì thế khi đưa ra một định nghĩa, từ điển sẽ bỏ qua ý nghĩa hoặc tầm quan trọng cùng mối quan hệ của từ với một lĩnh vực kiến thức rộng hơn.
“Bách khoa toàn thư khắc phục hạn chế đó của từ điển, bằng cách cung cấp thông tin phong phú về nội hàm, ý nghĩa của khái niệm hay còn gọi là đơn vị tri thức. Khác với “từ điển”, “bách khoa toàn thư” đi tìm sự tranh luận cho từng chủ đề ở một cấp độ sâu, đồng thời truyền tải kiến thức đã tích lũy được về chủ đề ấy” – ông Vượng lý giải.
Video đang HOT
Hiện nay có khoảng 1.000 nhà khoa học tham gia biên soạn các Quyển chuyên ngành của bộ Bách khoa toàn thư Việt Nam. Sắp tới sẽ có thêm 5.000-6.000 nhà khoa học thuộc trên 70 ngành khoa học các khối Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Khoa học xã hội và Nhân văn, Văn hóa Nghệ thuật, An ninh Quốc phòng sẽ tham gia công việc này.
Lo lắng việc mục từ trùng
Tại tọa đàm vấn đề xử lý mục từ trùng trong bách khoa toàn thư được nhiều chuyên gia xem là nan giải.
PGS.TS Bùi Anh Thủy, Trưởng khoa Luật, Trường ĐH Văn Lang, thành viên chính Ban biên soạn chuyên ngành Luật học của bộ Bách khoa toàn thư Việt Nam, cho hay một trong những vướng mắc, bất cập của quá trình biên soạn chính là “mục từ trùng”.
PGS. TS Bùi Anh Thủy (Ảnh: Tuệ Khánh)
Theo PGS Thủy, mục từ trùng có nhiều dạng như: Trùng về tên mục từ, tức việc một mục từ có trong ngành này nhưng lại cũng có trong bảng mục từ của ngành khác, mặc dù các ngành đều xác định đúng; Trùng về nội hàm nhưng tên của mục từ khác nhau; Tên mục từ không hoàn toàn giống nhau nhưng thực chất chỉ là một…
Thống kê của PGS.TS Bùi Anh Thủy cho thấy: Quyển 28 – Chính trị, Ngoại giao, Tổ chức có 296 mục từ trùng; Quyển 29 – Quốc phòng, có 181 mục từ trùng; Quyển 30 – Luật học có 235 mục từ trùng; Quyển 32 – Thông tin, Báo chí, Xuất bản, Bảo tàng có 225 mục từ trùng…
PGS Thủy đề xuất nếu trùng do sơ suất kỹ thuật của bảng mục từ trong cùng một quyển chuyên ngành (trùng hoàn toàn) thì bỏ một hoặc những mục từ trùng.
Nếu trùng đương nhiên (không tránh khỏi) trong cùng một quyển mà nội hàm có khác nhau theo phân ngành, thì chỉ giữ một mục từ. Trong nội dung của mục từ này sẽ có các mục nhỏ hơn.
Khi có mục từ trùng trong một số quyển, các Ban chuyên ngành cùng thảo luận và đưa ra giải pháp để Ban nào viết sẽ phù hợp hơn.
Ngoài ra, có những mục từ trùng nhưng nội hàm lại là nội dung chuyên môn của các Ban chuyên ngành khác nhau. Trường hợp này, giải pháp khả dĩ là các Ban cùng viết theo chuyên môn của mình, sau đó sẽ có Hội đồng hoặc Ban giải quyết mục từ trùng tổng hợp lại thành một mục từ hàm chứa nội dung của các quyển chuyên ngành.
Từ năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1262 phê duyệt Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam gồm 39 quyển, mỗi quyển sẽ có dung lượng 1.500 trang, bao gồm đầy đủ các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ và kỹ thuật, khoa học quốc phòng, ngoại giao, an ninh…
Tháng 2/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 238 thành lập Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam gồm 16 thành viên, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam giữ chức Chủ tịch Hội đồng.
Số hóa giáo dục đại học: Xu thế tất yếu
Số hóa trong dạy và học là xu thế tất yếu của giáo dục nói chung và giáo dục ĐH nói riêng. Đây không chỉ là giải pháp tạm thời khi xảy ra khi dịch bệnh mà là hướng đi góp phần giảm khoảng cách số trong giáo dục đào tạo CĐ, ĐH giữa các vùng miền, giữa các trường với nhau.
Nhiều trường đại học đã áp dụng số hóa trong dạy và học.
Theo các chuyên gia giáo dục, đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi hành vi của học sinh và phụ huynh. Xu hướng sử dụng công nghệ, cụ thể là các nền tảng trực tuyến trong môi trường giáo dục tăng lên đáng kể. Ngành công nghệ giáo dục có sự phát triển vượt bậc và nhu cầu cho các giải pháp học trực tuyến cũng tăng vọt.
Thông tin từ Bộ trưởng Bộ Thông tin truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, dịch Covid -19 vừa qua, Việt Nam có tới gần 80% học sinh, sinh viên học trực tuyến, tỷ lệ này cao hơn mức trung bình của các nước OECD là 67,15%. Tín hiệu đáng mừng này cho thấy cơ hội thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục là rất lớn. Đặc biệt, với nền tảng chương trình chuyển đổi số là quốc gia mà Thủ tướng Chính phủ đã ký năm nay, coi chuyển đổi số là lĩnh vực giáo dục ưu tiên số 1 thì ngành Giáo dục phải đi đầu về chuyển đổi số.
Có thể nói, hệ thống giáo dục trực tuyến phục vụ đào tạo sinh viên từ xa qua mạng và sinh viên chính quy như cách các trường đang làm hiện nay chính là cơ sở để xây dựng ĐH số hóa - tức là mọi hoạt động trong quy trình giảng dạy đều được xây dựng trên môi trường điện tử. Thậm chí, các hoạt động hỗ trợ sinh viên, các hoạt động thương mại trong trường học như dịch vụ về cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, phát triển các dịch vụ chuyển giao công nghệ cũng được thực hiện theo mô hình số hoá...
Phó Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ GDĐT Tô Hồng Nam cho rằng chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo tập trung vào hai nội dung chủ đạo là chuyển đổi số trong quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học. Một số khó khăn, tồn tại cần tiếp tục được khắc phục, hoàn thiện như: thách thức về hạ tầng mạng, trang thiết bị CNTT (máy tính, camera, máy in, máy quét), đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh...
Bên cạnh đó, vẫn thiếu hành lang pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ cung cấp thông tin khi thu thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số.
"Chỉ khi các nút thắt này được tháo gỡ mới thúc đẩy phát triển được hệ thống dữ liệu số, học liệu số đủ lớn (gồm cả dữ liệu mở), đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia nói chung và giáo dục đào tạo nói riêng" - TS. Tô Hồng Nam nêu quan điểm.
TS. Nguyễn Cao Trí - Chủ tịch hội đồng Trường ĐH Văn Lang đề xuất cần tạo điều kiện tối đa cho các trường ĐH thực hiện mô hình thí điểm các giải pháp đột phá về ứng dụng công nghệ trong giáo dục; linh động thay đổi khung thời gian và phương pháp đào tạo vì lợi ích, đồng thời đẩy mạnh hợp tác công tư để có thể tối ưu hóa nguồn lực xã hội, chuyển từ cạnh tranh thành hợp tác cùng phát triển; một số trường ĐH lớn có tiềm lực phải khuyến khích triển khai công nghệ và kêu gọi đầu tư để có thể thay đổi, cạnh tranh và trở thành các trường ĐH lớn, kết nối người học bằng công nghệ.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đề xuất, Bộ GDĐT cân nhắc thay đổi một số quy định, để chính thức hoá tỷ lệ học trực tuyến, thí dụ 15-30% ngay cả khi không còn Covid-19. Bởi, học trực tuyến sẽ thúc đẩy nhanh chóng kỹ năng số của cả giáo viên, học sinh, cũng như thu hẹp khoảng cách chuyển đổi số giáo dục đào tạo giữa thành phố với vùng sâu vùng xa.
Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc ngành Giáo dục năm 2020 vừa diễn ra, Bộ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Bộ TTTT cũng như toàn ngành TTTT cam kết đồng hành với Bộ GDĐT, bởi vì chuyển đổi số đầu tiên nên nhắm vào giới trẻ, để từ đó thúc đẩy toàn xã hội. Sắp tới, hai Bộ sẽ có buổi làm việc chuyên đề về chuyển đổi số ngành GDĐT, tận dụng cơ hội từ những thách thức của dịch Covid-19 để đẩy nhanh chuyển đổi số.
Trường ngoài công lập đua nhau mở ngành Y Dược Ngoài các trường công lập có truyền thống đào tạo về sức khỏe, các trường đại học ngoài công lập mở các ngành về Y Dược ngày càng nhiều. Đáng nói, ngay cả các trường có truyền thống đào tạo các ngành xã hội cũng đua nhau mở ngành Y Dược thì chất lượng đào tạo có đảm bảo? Ồ ạt mở ngành...