5 thách thức khi đưa máy tính bảng vào trường học
Từ nhiều năm qua, ngành giáo dục đã có những bước đi táo bạo trong việc đưa công nghệ thông tin vào trường học. Hầu hết các trường đại học đã có phòng máy tính kết nối Internet, có website cung cấp thông tin tuyển sinh, có trang web nội bộ quản lý sinh viên, cung cấp thời khóa biểu, đăng ký tín chỉ qua mạng. Các trường cấp 3 cũng bắt đầu cung cấp các dịch vụ tương tự.
Tuy nhiên, phần lớn các trường chỉ mới thành công trong việc cung cấp các dịch vụ web truy nhập từ máy tính để bàn. Sự phát triển của các thiết bị truy nhập Internet mới như máy tính bảng như iPad, Google Nexus, điện thoại thông minh iPhone, điện thoại chạy hệ điều hành Android đặt ra các nhiều thách thức mới cho các trường học.
1. Hạ tầng mạng quá tải vào kỳ thi.
Dạo qua các trang mạng xã hội Facebook của các sinh viên vào thời điểm bắt đầu các kỳ thi, chúng ta có thể thấy những lời phàn nàn phổ biến khi sinh viên không thể truy nhập trang web của trường để đăng ký học hay đăng ký thi. Đó là do mạng hay máy chủ của trường không đáp ứng kịp hàng trăm kết nối của học viên tại cùng một thời điểm. Việc này có thể do kết nối mạng của trường ra Internet hạn chế hoặc do trường đầu tư máy chủ có cấu hình thấp, hoặc do hệ thống phần mềm của trường chưa thiết kế để xử lý số lượng truy nhập đột biến như vậy. Dù bất kỳ lý do nào, việc mạng của trường bị lỗi mang lại ức chế cho sinh viên và làm giảm uy tín của trường trong nỗ lực đưa công nghệ thông tin vào trường học.
Với nền tảng khó khăn sẵn có, việc đưa máy tính bảng vào trường học sẽ góp phần làm tăng lượng truy nhập vào hệ thống mạng của trường. Tuy máy tính bẳng thể hiện lợi thế vượt trội của mình là gọn nhẹ, giá rẻ, mang lại cơ hội để người học có thể truy nhập Internet tại mọi nơi của trường thông qua mạng không dây, nhưng nó cũng mang lại thách thức không nhỏ cho các trường bởi phải nâng cấp đường truyền Internet để đáp ứng nhu cầu truy nhập của số lượng lớn sinh viên có thể lên tới con số hàng nghìn người tại cùng một thời điểm.
2. Xây dựng tài liệu học tập điện tử không đơn giản
Internet là kho tàng thông tin và kho tàng kiến thức để học viên tra cứu bổ sung cho giáo trình chuẩn của trường. Nhưng Internet cũng đặt ra thách thức cho các trường trong việc soạn giáo trình điện tử. Đó là giáo trình của trường phải cạnh tranh với các giáo trình của các trường khác tương tự trên thế giới.
Theo khảo sát thì phần lớn tài liệu học tập phổ biến của các trường được thiết kế theo dạng sách điện tử pdf, slide và video. Các nội dung này hoạt động tốt trên nền tảng web cho phép truy nhập bằng máy tính để bàn. Với việc ngày càng nhiều sinh viên sử dụng máy tính bảng như là thiết bị học tập chính, nhà trường trường sẽ phải chuyển đổi cách thể hiện nội dung, cho phép truy cập bằng máy tính bảng, với các yêu cầu mới như: Màn hình nhỏ hơn, tốc độ CPU chậm hơn, nội dung có thể được truy nhập ngay cả khi không có kết nối internet , nội dung được thiết kế phù hợp với tính năng “chạm để điều khiển” của máy tính bảng.
Thay đổi toàn bộ giáo trình đào tạo sao cho vừa phù hợp với máy tính để bàn, sao cho vừa phù hợp với máy tính bảng, thật sự là một thách thức lớn cho các ban quản lý trường học Việt Nam.
Video đang HOT
Intel là công ty đầu tiên hợp tác với Bộ Giáo dục Việt Nam làm nội dung giáo dục
3. Máy tính bảng và văn hóa BYOD
Một thách thức nữa khi các trường học muốn đưa bài giảng điện tử của mình đối với mỗi sinh viên đó là văn hóa sở hữu thiết bị di động cá nhân (BYOD – Bring your own device). Nhìn trên phố, trong khuôn viên các trường học, ta thấy rất nhiều bạn trẻ sở hữu máy tính bảng riêng. Bạn là tín đồ thời trang sẽ thích máy tính iPad của hãng Apple. Bạn thích máy tính cài nhiều chương trình sẽ chọn máy tính bảng Google Nexus. Bạn có ngân sách hạn hẹp có thể chọn máy tính bảng Android của hãng Lenovo. Việc nhà trường qui định thống nhất một loại máy tính cho học viên sẽ làm khó sinh viên đã trang bị máy tính bảng riêng của mình. Ngược lại, các nội dung trên mạng của nhà trường có thể phải đầu tư thiết kế lại để xem trên máy tính bảng tốt nhất.
4. Gia đình hay nhà trường trả tiền cho máy tính bảng
Các em học sinh, sinh viên không chi trả cho máy tính bảng nhưng chính là nhà trường hoặc bố mẹ. Đó thật sự là một khoảng đầu tư. Trong khi đó, máy tính bảng được thiết kế là thiết bị của mỗi cá nhân, ngoài việc học, máy tính bảng được sử dụng như thiết bị giải trí và nhiều chức năng khác. Có thể nói, tính năng giải trí là tính năng không thể thiếu ở máy tính bảng. Nhưng vì lo các em ham chơi, nhiều trường học có ý tưởng đầu tư máy tính bảng chỉ sử dụng riêng trong giờ học. Đó có thể bị coi là một lãng phí lớn vì số tiền bỏ ra là như nhau nhưng chức năng thì không được dùng tối đa
Vậy quyết định bỏ ngân sách để đầu tư máy tính bảng cho học sinh hay vận động phụ huynh học sinh mua máy tính bảng sẽ là một quyết định khó khăn cho nhà trường.
5. Máy tính bảng với học sinh nghèo
Máy tính bảng là công cụ hỗ trợ giáo dục tuyệt vời và việc đưa các nội dung dạy học lên máy tính bảng là việc trước sau gì các cơ sở giáo dục phải làm. Tuy nhiên, cũng như các thiết bị công nghệ khác, kinh phí đầu tư thiết bị và hạ tầng mạng chính là rào cản đầu tiên.
Các trường học của Việt Nam đang hoạt động theo mô hình nhà nước và nhân dân cùng chi trả. Trong đó, nhà nước chi trả phần hạ tầng, cha mẹ học sinh chi trả một số dịch vụ bổ sung. Tùy theo ngân sách địa phương, mức đóng góp của cha mẹ học sinh cũng khác nhau. Ngay trong cùng một lớp, khoảng cách thu nhập gia đình mỗi học sinh có khoảng cách khá xa. Do đó, nếu nhà trường yêu cầu gia đình cần trang bị cho mỗi học sinh một máy tính bảng, kể cả loại có mức giá trung bình, cũng là một gánh nặng đối với gia đình học sinh nghèo. Đây cũng là một thách thức các trường phải giải quyết khi đưa máy tính bảng vào trường học, nơi mà họ đang cố gắng mở rộng để chào đón thêm nhiều các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Cũng nên nhắc lại lại thông tin về hội thảo “Đề án thí điểm mô hình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục tiểu học từ lớp 1 đến lớp 3 tại TP.HCM năm học 2014 – 2015″, được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh ngày 18 tháng 8 vừa qua, trong đó chính quyền TP Hồ Chí Minh dự kiến chi tới 4000 tỷ đồng trong năm học tới để đưa toàn bộ máy tính bảng và mô hình lớp học thông minh của Hàn quốc áp dụng cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 3.
Hội thảo nhận được khá nhiều bình luận tiêu cực từ cộng đồng quan tâm đến giáo dục, họ lo lắng về tính khả thi của đề án. Các ý kiến ngay tại hội thảo cho rằng những người viết đề án chưa đánh giá được các các trường hợp thành công điển hình trong việc đưa công nghệ thông tin nói chung và máy tính bảng nói riêng vào áp dụng ở các cấp học cao như cấp ba, và cấp đại học. Nguy cơ lãng phí tiền đầu tư cho giáo dục dễ xảy ra khi những người có trách nhiệm chưa quan tâm đúng mức đến những khó khăn, thách thức khi thực hiện các dự án về công nghệ kiểu này.
Theo Tech In Asia
Chương trình giáo dục STEM trong giáo dục phổ thông
Chương trình giáo dục STEM đã được triển khai thí điểm tại 14 trường ở Hà Nội, Đà Nẵng, TPHCM. Chương trình học tích hợp, học để vận dụng là xu hướng của giáo dục hiện đại nhưng đòi hỏi phải "chắc" khi áp dụng vào Việt Nam.
Chương trình học theo chủ đề
Tại hội thảo "Giáo dục Stem trong chương trình giáo dục phổ thông của một số nước và vận dụng vào điều kiện của Việt Nam" diễn ra tại TPHCM ngày 24/6, ông Nguyễn Văn Hiếu, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TPHCM chia sẻ, giáo dục STEM là sự tích hợp giữa khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. STEM là viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kỹ thuật) và Mathematics (Toán học).
Một trong những hình thức học STEM mới đang được áp dụng hiện nay là học dựa trên thực hiện các bài thực hành. Đối với hình thức học này, học sinh (HS) được tham gia vào các bài học và bài thuyết trình có chất lượng cao theo từng chủ đề cụ thể.
Học sinh Trường chuyên Trần Đại Nghĩa, TPHCM trong giờ học ngoại khóa về Robotics.
Giáo sư Gil Taran, Trường Đại học Carnegie Mellon (Hoa Kỳ) cho hay, việc triển khai giáo dục STEM ở trường học là nhằm chuẩn bị cho HS những tri thức thiết yếu nhất của thế kỉ XXI, những kỹ năng có thể giúp tăng đáng kể ưu thế cạnh tranh của lao động mỗi quốc gia. Hiện nay STEM được áp dụng rộng rãi tại Mỹ.
Tại Việt Nam, từ năm 2011, mô hình "Phòng lab tích hợp STEM bằng tiếng Anh" một trong những nội dung của giáo dục STEM đã được triển khai thí điểm tại 14 trường ở Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng khoảng 1.000 HS theo học.
Từ ứng dụng của giáo dục STEM, 2 môn học mới đó là Công nghệ Thông tin và Robotics được triển khai ở Hà Nội và TPHCM. Trong đó, chương trình Robotics, HS được trang bị các kiến thức về khoa học tự nhiên, các nguyên lý cơ bản của các loại hình robot trong thực tế từ đó giúp các em hiểu và đam mê với các thiết bị thông minh trong thời đại công nghệ ngày nay. HS tại một số trường ở TPHCM đã đạt được một số giải quốc tế từ môn học này.
Những kết quả khả quan đã mở ra một hướng phát triển về giáo dục tích hợp STEM cho cấp học phổ thông. Dự kiến trong năm học này, chương trình tiếp tục được nhân rộng với 3.000 HS tham gia.
Chương trình giáo dục hạn chế do thiếu tích hợp
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, Phó vụ trưởng Vụ giáo dục trung học (Bộ GD-ĐT) cho rằng dựa trên các yêu cầu của giáo dục STEM, nhất là hiệu quả tích hợp các môn học và vận dụng thực tế có thể thấy chương trình giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện chưa thực sự có giáo dục STEM.
Nếu như ở bậc tiểu học, ít nhiều có tinh thần tích hợp trong chương trình như bộ môn Tìm hiểu tự nhiên và xã hội, Khoa học thì lên THCS, THPT các môn học lại độc lập, mới tích hợp ở một số nội dung trong từng môn học riêng lẻ.
Chương trình các môn Toán, Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ được xây dựng theo theo cách tiếp cận nội dung, chưa coi trọng yêu cầu hình thành và phát triển năng lực. Do thiếu sự gắn kết giữa kiến thức, kỹ năng của các môn học nên chương trình các môn khoa học tự nhiên của chúng ta còn nặng về kiến thức hàn lâm, nhẹ về yêu cầu thực hành, vận dụng...
Chính vì thế, theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống đã dẫn đến tình trạng phần lớn HS, sinh viên thiếu kỹ năng thực hành nghề nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin, thiếu chủ động, sáng tạo, hạn chế vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống. Nhân sự chưa thích ứng kịp với những biến đổi của công nghệ, thị trường lao động.
Từ những bất cập của chương trình giáo dục được xây dựng từ năm 2000, chưa kịp cập nhật với các xu thế phát triển chương trình hiện đại, ông Thống nhấn mạnh, giáo dục Việt Nam đang đứng trước những đòi hỏi trong bối cảnh giáo dục STEM cần được chú ý nghiên cứu và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện. Mà trước hết là vận dụng giáo dục STEM trong xây dựng, phát triển chương trình giáo dục phổ thông mới sau năm 2015.
Tuy nhiên, việc triển khai giáo dục STEM chưa thể tiến hành đại trà tại các trường học trên cả nước mà chỉ có thể thực hiện từng bước. Để áp dụng phương pháp mới này đòi hỏi các trường phải có đáp ứng được điều kiện vật chất cùng đội ngũ giáo viên có trình độ công nghệ thông tin lẫn khả năng dạy tích hợp.
Theo Dân trí
Hơn 70.000 học sinh Hà Nội cạnh tranh vào lớp 10 Hôm nay 23/6, hơn 70.000 học sinh thủ đô bước vào kì thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2014-2015. So với năm trước, tính cạnh tranh vào khối các trường công lập ở Hà Nội gia tăng đáng kể. Nhiều thí sinh lựa chọn các trường top giữa để đảm bảo chắc suất trường công. Hơn 70.000 học sinh (HS) thủ...