5 Sự thật về xương người ai cũng tưởng đúng nhưng hoá ra lại sai bét: Gãy ngón chân sẽ tự khỏi mà không cần bó bột
Gãy ngón chân sẽ tự khỏi mà không cần bó bột: Hóa ra đây là 5 điều mọi người hay hiểu lầm về xương
Đá ngón chân út vào cạnh bàn là một trải nghiệm khó quên với tất cả những ai từng gặp phải nó. Ngoài cơn đau điếng người mà nó gây ra, bạn sẽ phải tự hỏi xem liệu xương ngón chân của mình có gãy hay bị làm sao không.
Lúc này, ai đó có thể bày cho bạn một mẹo nhỏ: Thử động đậy ngón chân xem, nếu nó còn cử động được thì xương vẫn chưa làm sao cả.
Nhưng liệu điều này có đúng hay không? Hãy cùng giải mã 5 ngộ nhận về chuyện gãy xương mà mọi người hay mắc phải:
Hóa ra đây là 5 điều mọi người hay hiểu lầm về xương
Một khi còn động đậy được thì xương chưa có gãy – Sai
Trên thực tế, đôi khi bạn vẫn có thể cử động ngay cả khi xương đã gãy. Cử động không phải là dấu hiệu để nhận biết xương gãy hay không. Thay vào đó, có 3 triệu chứng cơ bản xảy ra khi xương gãy là đau, sưng và biến dạng cơ thể.
Nếu xương bị bẻ một góc 90 độ, nó chọc ra hẳn ngoài da thì gần như chắc chắn là nó đã gãy rồi. Một dấu hiệu khác là bạn nghe thấy một tiếng gãy như “rắc” khi tai nạn xảy ra.
Ngoài ra, để biết chắc xương có gãy hay bị rạn hay không, bạn phải đến bệnh viện để chụp X-quang.
Không đau nhiều chứng tỏ xương chưa gãy – Sai
Rất nhiều người kể lại rằng họ từng bị vấp ngã, nhưng sau đó vẫn tiếp tục trượt tuyết, đi bộ hoặc thậm chí nhảy múa, mà không nhận ra họ đã bị gãy xương. Đa phần những ca gãy xương sẽ khiến bạn đau và cực kỳ đau đớn. Nhưng nếu chỉ bị vỡ một mẩu xương nhỏ, bạn có thể không nhận ra điều đó.
Một khi bạn phát hiện ra xương mình đã bị gãy, quan trọng là bạn phải được sơ cứu bởi người có chuyên môn để đảm bảo xương được đưa về đúng chỗ và được giữ đúng vị trí suốt thời gian chúng lành lại. Điều này giúp vết thương không gây ra nhiễm trùng hoặc biến dạng vĩnh viễn.
Nhưng có một điểm đặc thù liên quan giữa việc bị gãy xương và cảm giác đau, mặc dù đó không phải cơn đau ngay khi xương bạn bị gãy. Một nghiên cứu của Đại học Southampton khảo sát khoảng nửa triệu người trưởng thành chỉ ra những người từng bị gãy tay, chân, cột sống hoặc hông nhiều khả năng phải đối mặt với những cơn đau lan rộng khắp cơ thể trong vài thập kỷ sau đó. May mắn thay, chứng đau này không phổ biến lắm.
Không phải vì bạn không thấy đau mà xương bạn không bị gãy
Chỉ phụ nữ da trắng lớn tuổi mới phải lo bị gãy xương do loãng xương – Sai
Video đang HOT
Hãy bắt đầu với tuổi tác. Đúng là phụ nữ lớn tuổi có nhiều khả năng bị gãy xương hơn phụ nữ trẻ. Những thay đổi nội tiết tố của thời kỳ mãn kinh có thể dẫn đến loãng xương nhanh tạo điều kiện cho các vết nứt trên xương xuất hiện.
Khi nói đến chủng tộc, ở Hoa Kỳ, số lượng phụ nữ da trắng gãy xương hông cũng nhiều gấp đôi phụ nữ da đen. Một số yếu tố đã được đề xuất để giải thích hiện tượng này. Các nhà khoa học cho rằng phụ nữ da đen có khối lượng xương cao hơn từ thời thơ ấu, và tốc độ tái tạo xương của họ cũng nhanh hơn, giúp bù đắp sự suy giảm mật độ khoáng trong xương khi về già.
Nhưng phải nói rằng, phụ nữ da đen vẫn có thể bị loãng xương, chỉ là tỷ lệ thấp hơn mà thôi. Khoảng 5% phụ nữ da đen trên 50 tuổi bị loãng xương. Mặc dù vậy ở Mỹ, phụ nữ Mỹ gốc Phi ít được quan tâm để sàng lọc loãng xương hơn phụ nữ da trắng, và nếu được chẩn đoán, họ cũng ít có khả năng được điều trị theo quy định.
Nghi gãy ngón chân thôi thì chẳng cần đi bác sĩ – Sai
Một người bị gãy ngón chân út nhưng vẫn phải bó bột
Trở lại với việc bạn đá ngón út vào chân bàn, liệu có phải đi gặp bác sĩ không? Trên thực tế, gãy ngón chân nhiều khi không phải bó bột, nhưng nó vẫn cần phải được kiểm tra y tế.
Các bác sĩ cần tìm ra và khắc phục vấn đề (nếu có) để giúp bạn giảm đau và phòng ngừa những dị tật sau này, thứ có thể khiến bạn không thoải mái khi đi giày hoặc tăng nguy cơ viêm khớp. Nếu ngón chân của bạn bị gãy và gập một góc khác thường, các biện pháp điều trị phức tạp hơn, thậm chí, phẫu thuật là cần thiết.
Nhưng thực tế, hầu hết các ngón chân bị gãy có thể được dán vào các ngón chân ở hai bên và giữ ổn định trong một chiếc giày cứng đặc biệt. Để nó lành lại thường phải mất từ 4-6 tuần. Nếu bị gãy ngón chân cái, trong trường hợp nghiêm trọng bạn cần bó bột đến bắp chân từ 2-3 tuần, sau đó tiếp tục phải dán cố định nó vào ngón chân bên cạnh một thời gian nữa.
Điều thú vị là, ngón chân cái có nguy cơ bị gãy thấp hơn tới một nửa so với các ngón chân còn lại.
Nếu bạn bị gãy xương bàn chân – xương ngay trên các ngón – bạn có thể không cần phải bó bột, và chỉ cần tránh hoạt động. Điều này là do xương bàn chân có xu hướng giữ thẳng nhau, hai xương hai bên chiếc xương gãy hoạt động như một nẹp tự nhiên, bởi vậy mà trong 80% các trường hợp gãy xương bàn chân, chúng vẫn ở đúng vị trí.
Gãy xương bàn chân nhiều khi không cần bó bột
Nhưng nếu xương bị nứt hở, hoặc chúng không ở vào đúng vị trí, bạn có thể cần phải được điều trị. Và điều này thường xảy ra ở xương bên dưới ngón chân cái bởi vì nó không có sự hỗ trợ của các xương bên cạnh. Tương tự như vậy, gãy xương bên dưới ngón chân út đôi khi nghiêm trọng đến mức phải phẫu thuật hoặc bó bột.
Trong trường hợp nhẹ hơn, bác sĩ sẽ nẹp êm ngón chân gãy cho bạn. Nhưng bạn vẫn phải hạn chế sử dụng chúng, có thể là phải chống nạng trong 1-2 tuần.
Sau khi xương gãy lành, nó sẽ khỏe hơn – Sai
Điều này nghe có vẻ quá tốt để trở thành sự thật. Nhưng trên thực tế, đúng là xương mới lành sẽ cứng hơn trong vòng vài tuần.
Điều này là vì trong quá trình hồi phục, cơ thể tạo ra một lớp bảo vệ xung quanh xương gãy. Nhưng lớp bảo vệ này sẽ tự động biến mất sau đó. Khi tế bào xương được thay mới trong chu kỳ của cơ thể , tất cả xương của bạn dù là chỗ gãy hay chỗ lành cũng có độ cứng và khỏe tương đương nhau.
Theo searchtotal.org
7 dấu hiệu nguy cơ ung thư nội mạc tử cung
Ung thư nội mạc tử cung đang gia tăng - ngay cả ở phụ nữ trẻ. Hãy chắc chắn rằng bạn biết các yếu tố nguy cơ và triệu chứng để theo dõi.
1. Cân nặng
Ung thư nội mạc tử cung chủ yếu tấn công phụ nữ sau mãn kinh. Tuổi trung bình khi có chẩn đoán là 60, nhưng đã có sự gia tăng rõ rệt về chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung ở phụ nữ trẻ. Điều này có thể do đại dịch béo phì. Các tế bào mỡ sản sinh ra hoóc-môn nữ estrogen, và tất cả lượng estrogen tăng thêm này có thể tích tụ trong cơ thể và làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
Mối liên quan giữa ung thư nội mạc tử cung và mỡ thừa là rõ ràng, nhưng phụ nữ bị ung thư nội mạc tử cung dễ chết vì bệnh tim hơn là ung thư (nếu được phát hiện sớm) vì mỡ thừa gây ung thư nội mạc tử cung cũng gây ra bệnh tim.
2. Đái tháo đường
Đái tháo đường thường song hành với béo phì, nhưng chính nó cũng làm tăng nguy cơ phát triển ung thư nội mạc tử cung. Trên thực tế, ung thư nội mạc tử cung có thể phổ biến ở phụ nữ bị đái tháo đường hơn gấp bốn lần, theo ACS. Sự gia tăng này có thể là do mức insulin cao hơn bình thường gây kích thích các tế bào ung thư phát triển.
Kiểm soát chặt chẽ bệnh đái tháo đường có thể giúp giảm nguy cơ này. Duy trì cân nặng khỏe mạnh và tập thể dục thường xuyên sẽ giúp giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và có thể có tác dụng tích cực đối với cả đái tháo đường.
Chế độ ăn kiêng cực kỳ ít tinh bột cũng có thể hữu ích. Phụ nữ bị ung thư buồng trứng hoặc nội mạc tử cung ăn chế độ ăn kiêng kiểu ultra low-carb keto trong 12 tuần mất nhiều mỡ trong cơ thể và có nồng độ insulin thấp hơn những phụ nữ theo chế độ ăn ít chất béo do ACS khuyến cáo. So với chế độ ăn do ASC đề xuất, với carbonhydrat từ vừa đến cao, nhiều chất xơ, và ít chất béo, thì chế độ ăn ketogenic trong 12 tuần, với ít carbohydrate, nhiều chất béo, làm giảm khối mỡ đáng kể hơn.
3. Tiền sử gia đình
Hội chứng Lynch là một bệnh di truyền làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng, nội mạc tử cung và các loại ung thư khác. Nếu bạn có tiền sử gia đình bị ung thư tử cung hoặc đại tràng, đặc biệt là ở những người trẻ trong gia đình, hãy nói chuyện với bác sĩ về xét nghiệm di truyền cho hội chứng Lynch.
Khám sàng lọc ung thư tăng triển và/hoặc phẫu thuật giảm nguy cơ có thể giúp xoay chuyển tình thế của những căn bệnh nếu bạn có hội chứng Lynch.
4. Các vấn đề về khả năng sinh sản
Sự tích tụ của estrogen trong cơ thể được biết là làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, và có vẻ như vô sinh - chứ không phải điều trị vô sinh - cũng có thể làm tăng nguy cơ này. Có thể sự tiếp xúc với estrogen suốt đời và không bị gián đoạn trong thời gian mang thai làm tăng nguy cơ này.
Nói cách khác: bạn càng có nhiều chu kỳ kinh nguyệt thì nguy cơ phát triển ung thư càng lớn. Đó cũng là lý do tại sao việc sử dụng thuốc tránh thai làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
5. Sử dụng liệu pháp thay thế hoóc-môn (HRT)
Uống estrogen đơn thuần (không có progesteron) để làm giảm bớt một số triệu chứng mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung ở những phụ nữ vẫn còn tử cung. Đây là lý do tại sao progestin được thêm vào phác đồ ở những phụ nữ này.
Nghiên cứu trên tạp chí Cancer Epidemiology gợi ý rằng tỷ lệ ung thư nội mạc tử cung tăng đáng kể từ năm 2002 đến năm 2009 sau khi việc sử dụng liệu pháp thay thế hormon kết hợp (HRT) giảm mạnh do những phát hiện từ nghiên cứu Sáng kiến Sức khỏe Phụ nữ. Nhánh HRT của nghiên cứu quy mô lớn này đã phải dừng lại sớm khi các nhà nghiên cứu nhận thấy sự gia tăng ung thư vú (cũng như bệnh tim, đột quỵ và huyết khối) được thấy ở những phụ nữ uống estrogen kết hợp với progesteron. Thành phần progestin trong HRT làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung ở phụ nữ thừa cân và béo phì.
6. Ra máu sau mãn kinh
Có những triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung, nhưng nhiều phụ nữ có thể bỏ qua hoặc nhầm lẫn chúng. Bất kỳ tình trạng ra máu nào sau mãn kinh đều cần được kiểm tra. Có nhiều nguyên nhân không phải ung thư, nhưng loại trừ ung thư nội mạc tử cung nên là ưu tiên hàng đầu. Ra máu nhiều hoặc bất thường cũng đáng để kiểm tra ở phụ nữ trẻ. Nếu có thay đổi về chảy máu hoặc thay đổi về lượng hoặc thời gian ra chảy máu, hãy nói chuyện với bác sĩ. Sinh thiết nội mạc tử cung rất đơn giản, và nó có thể loại trừ ung thư và giúp bạn yên tâm.
Cần nhớ rằng khí hư âm đạo - ngay cả khi không có máu - cũng có thể là một trong những triệu chứng ung thư nội mạc tử cung để theo dõi. Ở khoảng 10% số trường hợp, khí hư liên quan đến ung thư nội mạc tử cung không có máu máu, theo ACS. Hãy cho bác sĩ biết về bất kỳ tình trạng khí hư bất thường nào.
7. Chướng bụng và đau vùng chậu
Phụ nữ tiền mãn kinh cũng có thể gặp các triệu chứng khác của ung thư nội mạc tử cung. Các triệu chứng khác có thể kín đáo: chướng bụng hoặc cảm thấy no nhanh hơn bình thường; thay đổi thói quen đại tiểu tiện; đau bụng hoặc đau vùng chậu. Hãy cho bác sĩ biết về bất kỳ triệu chứng bất thường nào, đặc biệt là nếu chúng kéo dài trong hai tuần hoặc lâu hơn.
Ung thư nội mạc tử cung là gì?
Ung thư nội mạc tử cung nằm trong mục chung của ung thư tử cung. Bệnh phát triển ở lớp niêm mạc phút mặt trong tử cung (nội mạc tử cung). Một dạng khác, hiếm gặp hơn, gọi là sarcoma tử cung, bắt đầu ở cơ hoặc các mô khác trong tử cung. Theo Hội Ung thư Mỹ, (ACS), sẽ có khoảng 63.230 trường hợp ung thư tử cung mới được chẩn đoán ở nước này trong năm 2018, và khoảng 11.350 phụ nữ sẽ chết vì căn bệnh này. Ung thư tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ tư ở phụ nữ Mỹ, nhưng nó thường có thể điều trị bằng phẫu thuật khi được phát hiện sớm. Dưới đây là những dấu hiệu cho thấy một người có nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung.
Cẩm Tú
Theo Dân trí
Cách chăm sóc gò bồng đào cho phụ nữ trung niên Cách chăm sóc gò bồng đào cho phụ nữ trung niên, giúp bạn có được vòng 1 săn chắc, tránh được tình trạng chảy xệ, da nhăn nheo do lão hóa. Tình trạng chảy xệ và chùng nhão là sự thật về bộ ngực của bất cứ phụ nữ nào khi bước vào tuổi trung niên. Bạn có thể tăng kích cỡ ngực...