5 năm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục mầm non – Bài 1: Bước chuyển mình quan trọng
Sau 5 năm triển khai Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục mầm non đã phát triển nhanh chóng cả về quy mô, số lượng và chất lượng, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi được thực hiện trong bối cảnh kinh tế đất nước rất khó khăn, xuất phát điểm của giáo dục mầm non rất thấp. Đầu tư cho phổ cập không đảm bảo mục tiêu như kế hoạch. Song đây là một chủ trương đúng đắn, nhân văn nên công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi đã được xã hội tích cực hưởng ứng. Việc cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017 đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của bậc học này, đồng thời tạo đà cho quá trình đầu tư, phát triển bậc học mầm non.
Hệ thống giáo dục mầm non đã phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Ảnh minh họa: Thu Hoài/TTXVN
Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi
Chia sẻ về những kết quả nổi bật của giáo dục mầm non sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 29, ông Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết: Việt Nam đã thực hiện thành công các mục tiêu của phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Năm 2013 mới có 11 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn thì đến năm 2017, 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.
Mạng lưới cơ sở vật chất được đầu tư phát triển và từng bước được chuẩn hóa, về cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc, giáo dục trẻ. Năm 2013, số trường mầm non là 13.734 trường, hiện nay là 15.394 trường (tăng 1660 trường); năm 2013 tổng số phòng học là 148.878 phòng, hiện nay là 197.104 phòng, tăng 48.226 phòng; năm 2013, tỷ lệ phòng học kiên cố là 59,8%, hiện nay là 72,17%, tăng 12,37%.
Đội ngũ giáo viên cũng tăng về số lượng, từng bước chuẩn hóa về chất lượng; chính sách với giáo viên mầm non đã được quan tâm hơn trước đây. Tổng số giáo viên mầm non tăng 98.184 người, tất cả giáo viên mầm non được hưởng đầy đủ chế độ chính sách như giáo viên các cấp học khác.
Số trẻ mầm non đến trường tăng nhanh, với tổng số trẻ đến trường hiện nay là hơn 5,6 triệu trẻ, tăng hơn 1,1 triệu trẻ so với năm 2013; bình quân mỗi năm trẻ em mầm non đến trường tăng khoảng 230 nghìn trẻ. Hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ được đổi mới theo định hướng toàn diện, tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm và với phương châm học mà chơi, chơi mà học. Chương trình giáo dục mầm non đảm bảo phát triển những phẩm chất, năng lực mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa tiềm năng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện của trẻ em; chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Bên cạnh thành tựu đạt được, các chuyên gia giáo dục cũng phân tích, chỉ rõ những khó khăn, thách thức của giáo dục mầm non hiện nay. Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Trâm, nguyên Giám đốc Trung tâm nghiên cứu giáo dục mầm non, Viện Nghiên cứu giáo dục Việt Nam cho rằng: Thực tế hiện nay, quy mô phát triển giáo dục mầm non chưa đồng đều giữa các vùng miền, cơ hội đến trường của trẻ em miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn hạn chế. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở vùng nông thôn, vùng khó khăn còn thấp và còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền trong cả nước.
Ở một số nơi, giáo dục mầm non còn thiếu cơ sở vật chất, trường lớp không đủ, mới chỉ ưu tiên phổ cập cho trẻ mầm non 5 tuổi hoặc trường lớp không đảm bảo điều kiện làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Ở một số khu đô thị, khu công nghiệp, tình trạng thiếu cơ sở giáo dục mầm non, người lao động phải gửi con trong các nhóm trẻ tự phát, không đảm bảo an toàn cho trẻ… Một số nơi vùng núi cao, vùng sông nước vẫn tồn tại nhiều điểm trường lẻ, khó khăn trong việc đầu tư nguồn lực, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Tình trạng thiếu phòng học chậm được khắc phục, vẫn còn phòng học tạm, học nhờ; công trình vệ sinh, nước sạch, bếp ăn ở nhiều nơi còn thiếu thốn. Đặc biệt, thiếu giáo viên mầm non là vấn đề được nhắc đến nhiều trong thời gian qua.
Khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng miền
Tạo điều kiện để trẻ em từ 6 tháng đến 6 tuổi được tiếp cận với dịch vụ mầm non có chất lượng. Ảnh minh họa: Quang Đán/TTXVN
Trước những thách thức đặt ra với giáo dục mầm non hiện nay, Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Trâm khuyến nghị, cần tạo điều kiện để trẻ em từ 6 tháng đến 6 tuổi được tiếp cận với dịch vụ mầm non có chất lượng. Mở rộng quy mô, số lượng và nâng cao chất lượng hệ thống các cơ sở giáo dục mầm non trên địa bàn dân cư, đảm bảo sự cân bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục mầm non cho mọi trẻ em, đáp ứng nhu cầu gửi con của các bậc phụ huynh, đồng thời khắc phục cơ bản sự chênh lệch về phát triển giáo dục mầm non giữa các vùng miền.
Tiến sĩ Trịnh Văn Tùng, giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương cho rằng: Việc nâng chuẩn là vấn đề quan trọng nhất trong phát triển giáo dục mầm non. Chương trình giáo dục mầm non hiện nay đang chuyển hướng từ phương thức giáo dục truyền thống với cách giảng dạy theo giáo trình cứng nhắc, quy tắc, sang mô hình giáo dục linh hoạt, tăng quyền tự chủ của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục. Các cô giáo nhận định khả năng riêng của từng học sinh để áp dụng chương trình dạy và học riêng cho học sinh đó. Phương pháp giảng dạy linh hoạt hơn đòi hỏi các giáo viên phải có tay nghề cao hơn và có khả năng cá thể hóa kế hoạch học tập cho học sinh. Vì thế, giáo viên phải được đào tạo bài bản, đây là một trong những điều kiện để đổi mới giáo dục mầm non thành công.
Video đang HOT
Tiến sĩ Trịnh Văn Tùng cũng nhấn mạnh: Để bảo đảm chất lượng giáo dục mầm non, không để xảy ra tình trạng vnhư thời gian qua, cần có quy định, người trực tiếp chăm sóc trẻ ở các cơ sở ngoài công lập phải có bằng hoặc chứng chỉ đã được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chăm sóc trẻ mầm non và có phẩm chất đạo đức phù hợp. Các cơ quan chức năng nghiêm cấm việc tuyển dụng người chưa qua đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ trực tiếp chăm sóc trẻ mầm non.
Để tạo điều kiện cho bậc học mầm non phát triển, ông Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non khuyến nghị: Nhà nước cần quan tâm hơn nữa để trẻ mầm non được hưởng các chế độ chính sách ưu tiên và điều kiện tốt nhất về chăm sóc giáo dục trong môi trường an toàn, thân thiện.
Ví dụ điển hình, đó là trong quá trình thực hiện Nghị quyết 29, Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định chính sách hỗ trợ ăn trưa với trẻ em mẫu giáo và chính sách hỗ trợ đối với giáo viên mầm non. Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025. Hai chính sách này có tác động rất rõ nét.
Chính sách hỗ trợ chế độ ăn trưa đối với trẻ em hộ cận nghèo, hộ nghèo, trẻ em vùng đặc biệt khó khăn đã tác động đến chính sách huy động trẻ đến trường rất tốt. Mỗi bữa ăn dù chỉ có thêm 5.000 đồng/cháu nhưng chất lượng bữa ăn trưa đã được cải thiện đáng kể. Cũng nhờ bữa ăn trưa này mà trẻ em ở các cơ sở mầm non vùng khó khăn đã hào hứng hơn với việc đến trường, gia đình cũng yên tâm hơn khi gửi các em đến các lớp.
Theo TTXVN
Bức tranh giáo dục Việt Nam sau 5 năm "Đổi mới căn bản toàn diện"
Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngành Giáo dục đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng, có sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng của đổi mới GDĐT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn, tồn tại cần khắc phục.
Những con số ý nghĩa
Về Giáo dục mầm non, năm học 2013-2014 cả nước mới có 18 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi thì đến năm 2017, 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Tháng 8/2018, Chính phủ đã thống nhất chủ trương thực hiện chính sách miễn học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em diện phổ cập, nhất là đối với các thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
63/63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Đối với, giáo dục phổ th ô ng, Nghị quyết 29 xác định "phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương". Tính đến 2017, số học sinh trung học phổ thông của Việt Nam là trên 2,5 triệu và số học sinh trung học nghề và trung học chuyên nghiệp trong các năm 2016, 2017 khoảng gần 600 nghìn người. Như vậy, tổng số đã có trên 67% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương.
Trong báo cáo "Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á - Thái Bình Dương", năm 2018 của Ngân hàng Thế giới đã khẳng định 7 trong số 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới nằm ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng là ở hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc.
Trong 05 năm trở lại đây, thành tích của các đội tuyển quốc gia Việt Nam dự thi Olympic quốc tế và khu vực liên tục duy trì ở mức cao. Đặc biệt, năm 2018 đội tuyển Olympic quốc tế môn Sinh học đạt thành tích rất xuất sắc, có 01 học sinh đạt điểm cao nhất trong tất cả thí sinh và đã được Ban tổ chức vinh danh là Người chiến thắng. Giai đoạn 2012 - 2018, các đoàn học sinh Việt Nam tham dự cuộc thi Intel ISEF được tổ chức tại Hoa Kỳ với sự tham dự của trên 100 nước trên thế giới đã đạt được 22 giải các loại. Đặc biệt, trong năm 2017, Việt Nam là 1 trong 5 nước có giải thưởng nhiều nhất của cuộc thi.
6 thí sinh đội tuyển quốc gia Việt Nam đều giành huy chương tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế 2017.
Tư năm 2015 đên nay, thưc hiên chi đao cua Chinh phu, ky thi tôt nghiêp THPT đôi mơi theo hương tô chưc kỳ thi THPT quốc gia để xét công nhận tốt nghiệp THPT và là căn cứ xét tuyển đại học, cao đẳng.
Kết quả đổi mới thi cơ ban đa thanh công, làm giam ap lưc, giảm tôn kem cho xa hôi; kêt qua thi đam bao khach quan, công bằng, co đô tin cây va minh bach hơn cho thi sinh; đồng thời dần khắc phục tinh trang hoc lêch, hoc tu ơ trương phô thông va hiện tượng luyện thi tràn lan.
Những sai phạm phát hiện trong Kỳ thi THPT quốc gia ở một số địa phương năm 2018 đã được xác định rõ nguyên nhân và sẽ được khắc phục triệt để trong năm 2019 và các năm tiếp theo.
Về giáo dục đại học, đến nay có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014.
Trước 2014, chỉ có 15 chương trình đào tạo của hai Đại học Quốc gia được các tổ chức khu vực và quốc tế đánh giá, kiểm định. Đến năm 2018, đã có 104 chương trình đào tạo từ 15 trường đại học khác của Việt Nam đã được các tổ chức kiểm định quốc tế (AUN-QA của ASEAN, CTI của Pháp, ABET và AACSB của Hoa Kỳ) đánh giá và công nhận chất lượng.
Đồng thời, có 06 cơ sở giáo dục đại học tham gia kiểm định cấp trường, được Hội đồng Cấp cao về đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và Mạng lưới đảm bảo chất lượng các trường đại học ASEAN (AUN-QA) đánh giá và công nhận chất lượng.
Trước năm 2014, chỉ có duy nhất Đại học Quốc gia Hà Nội lọt vào bảng xếp hạng đại học Châu Á (QS Asia) của Tổ chức xếp hạng đại học QS (Quacquarelli Symonds) nằm trong nhóm 250 trường hàng đầu thì đến năm 2018 có 5 cơ sở giáo dục đại học nằm trong nhóm 400 trong bảng xếp hạng đại học Châu Á của QS.
Trong đó, hai Đại học Quốc gia nằm trong nhóm 150 trường tốt nhất Châu Á (Châu Á có 6000 trường đại học).
Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng đại học quốc tế, hai Đại học Quốc gia nằm trong nhóm 1000 trường hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng đại học QS World (thế giới có hơn 21000 trường đại học). Ngoài ra, cũng đã có 3 trường đại học khác đạt mức 3 sao, 1 trường đạt mức 4 sao theo chuẩn gắn sao đại học thế giới (QS Star Rating).
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm được cải thiện. Kết quả khảo sát độc lập về việc làm thông qua phỏng vấn trực tiếp 25.000 sinh viên tốt nghiệp sau 12 tháng của 50 trường đại học ở cả ba miền do Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện cho thấy, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm trung bình là 84% (chưa tính số người đi học tiếp), nhiều trường đạt từ 85 - 97%.
Đối với giáo dục thường xuy ê n: Nhiều địa phương đã thưc hiên những giải pháp vận động người lớn tuổi học các lớp xóa mù chữ, vơi sự phối hợp của nhiều lực lượng xã hội. Vi vây, 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện và 99,9% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 và 80,3% đơn vị cấp xã được công nhận đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.
Bộ GDĐT cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 Đề án về dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài nhằm thúc đẩy việc dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Bộ GDĐT chỉ đạo xây dựng Chương trình tiếng Việt theo khung năng lực 6 bậc.
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm trung bình là 84% (chưa tính số người đi học tiếp), nhiều trường đạt từ 85 - 97%.
Còn tồn tại nhiều yếu kém
Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW, Bộ GD&ĐT thừa nhận, nội dung chương trình giáo dục phổ thông hiện hành còn nặng, chưa quan tâm đúng mức tới giáo dục kỹ năng sống; đổi mới phương pháp dạy học có nhiều cải tiến nhưng chưa thật ổn định; một số vấn đề như dạy thêm học thêm, lạm thu... chưa được giải quyết triệt để.
Tiến độ triển khai Chương trình, sách giáo khoa (CTSGK) mới chưa đảm bảo tiến độ theo Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội; các điều kiện để bảo đảm thực hiện CTSGK còn nhiều khó khăn; sự vào cuộc, tham gia của các địa phương, cơ sở giáo dục trong việc chuẩn bị đổi mới CTSGK còn lúng túng, bị động.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên ở một số cơ sở GDĐT chưa đạt yêu cầu. Một số nơi chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ, một số ít giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo. Bạo lực học đường vẫn còn diễn ra, nhất là đối với các nhà trẻ, nhóm trẻ tư thục.
Đội ngũ giáo viên phổ thông còn thừa, thiếu cục bộ, nhất là thiếu giáo viên mầm non. Chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút được sinh viên giỏi vào ngành sư phạm. Chính sách tiền lương đối với nha giao chưa thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 29.
Viêc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường, lớp học ở một số địa phương chậm triển khai, chưa phù hợp với thực tế, nhất là những tỉnh, thành phố có dân số cơ học tăng cao. Nhiều địa phương con thiếu trường, lớp ở các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu cơ sở vật chất, thiết bị và đồ dùng dạy học.
Việc sáp nhập các trung tâm giáo dục thường xuyên thiếu tính khoa học. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của nhiều trung tâm học tập cộng đồng thấp, nhiều nơi sáp nhập với trung tâm văn hóa thể thao dẫn đến nhiệm vụ học tập của trung tâm bị coi nhẹ. Giáo dục hướng nghiệp con nhiêu han chê, có nơi làm hinh thưc; viêc phân luồng học sinh sau THCS chưa thực hiện tốt.
Hệ thống giáo dục đại học chưa được phân loại về chất lượng để có chính sách ưu tiên đầu tư theo kết quả đào tạo. Cơ sở vật chất, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở nhiều cơ sở đào tạo chưa đươc hiện đại hoá.
Phương án đổi mới, tổ chức kỳ thi THPT quốc gia đã kế thừa được những ưu điểm và kết quả đạt được, khắc phục những bất cập của các kỳ thi trước đó nhưng trong quá trình tổ chức thi còn một số hạn chế, nhất là để xảy ra tiêu cực, gian lận có tổ chức trong chấm thi tại Hội đồng thi của một số địa phương (năm 2018).
Hàng loạt giải pháp khắc phục
Nhằm khắc phục các tồn tại, hạn chế của ngành trong thời gian qua, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt, củng cố niềm tin của xã hội để tiếp tục thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết 29 đặt ra.
Bộ GD&ĐT đưa ra giải pháp trong thời gian tới là rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước, trong đó tập trung rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông theo Nghị quyết số 19-NQ/TW, khắc phục tình trạng thiếu trường lớp, nhất là trường lớp mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất; tiếp tục hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở đào tạo giáo viên.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, trong đó tiếp tục rà soát, săp xêp lai đôi ngu giao viên găn với viêc bao đam cac quy đinh vê định mức giáo viên, khắc phục tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ, nâng cao đạo đức nhà giáo.
Đổi mới giáo dục mầm non, phổ thông; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông.
Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ đào tạo, trong đó tiếp tục hoàn thiện, xây dựng chương trình ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra và ngành, nghề đào tạo; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục, trong đó tập trung hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục;
Đẩy mạnh giao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đối với các cơ sở GDĐT; Hội nhập quốc tế trong GDĐT.
Giải pháp trước mắt Bộ GD&ĐT sẽ thực hiện hoàn thiện thể chế, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về GDĐT; Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý giáo dục các cấp; Tăng cường các nguồn lực đầu tư cho GDĐT; Tăng cường công tác khảo thí, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục; Đẩy mạnh công tác truyền thông về GDĐT.
Nhật Hồng ( tổng hợp)
Theo Dân trí
5 năm phổ cập giáo dục MN: Mỗi bữa ăn của trẻ được tăng lên 5.000 đồng Sau 5 năm triển khai Nghị quyết 29 về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục mầm non phát triển nhanh chóng cả về quy mô, số lượng và chất lượng. 2 thành công rõ nét nhất đó là chính sách hỗ trợ ăn trưa với trẻ em mẫu giáo và chính sách hỗ trợ đối với...