4 việc mẹ bầu lơ là có thể gây dị tật thai nhi
Những việc thường ngày của mẹ như tiếp xúc với chất tẩy rửa, uống thuố.c bừa bãi… có thể ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi.
Sử dụng chất độc hại trong sinh hoạt
Các chất hóa học hữu cơ như chất tẩy rửa, chất làm mềm, keo, sơn móng tay, thuố.c trừ sâu, sơn, xăng dầu, những chất hữu cơ dễ bay hơi này thường được sử dụng để làm dung môi, trong đó benzen và methanol được sử dụng nhiều nhất trong đồ gia dụng. Ngoài ra, môi trường xung quanh ô nhiễm ví dụ như tia bức xạ mạnh, chì, pin, vật liệu xây dựng chất lượng kém v.v… đều có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của thai nhi.
Thời kỳ những chất có hại ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến thai nhi là trong quãng thời gian mang thai từ 8-12 tuần. Đây là thời gian quan trọng cho thai nhi phát triển các bộ phận và dây thần kinh trung ương, cũng là giai đoạn nhạy cảm nhất, dễ bị tổn thương nhất. Vì vậy, nếu thai nhị chịu phải những tổn hại này, bà bầu phải bỏ thai nhi ngoài ý muốn.
Ngoài ra, trong thời kỳ phát triển hoàn thiện từ 3-8 tháng, mặc dù những chất có hại này không gây nguy hại cao cho dị tật thai nhi, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển các bộ phận trong cơ thể hoặc chức năng các bộ phận đó có vấn đề, thậm chí dẫn đến sẩy thai. Chính vì vậy, các bà bầu cần phải cẩn thận và chú ý tránh xa các chất có hại này trong cuộc sống.
Hút thuố.c, uống rượu bia nhiều
Bà bầu uống rượu rất dễ tăng tỉ lệ dị tật cho thai. Ví dụ, tính theo mỗi cốc rượu 100ml, nếu bà bầu uống rượu trắng, rượu mạnh hay trên 4 cốc bia thì trong 100 bà bầu sinh con có 25-30 người sinh con có tim dị tật. Cũng có bà bầu phản bác nói, tôi có uống rượu bia nhưng không phải uống hàng ngày và uống không nhiều, tuy nhiên chuyên gia khuyến cáo, kể cả 1 tuần chỉ uống 1 lần thì kết quả cũng như vậy. Hi vọng các bà bầu và từ bỏ hẳn.Chúng ta đều biết hút thuố.c và uống rượu có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe. Nếu bà bầu cũng hút thuố.c uống rượu thì không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của chính mình mà còn gây ra nhiều bất lợi cho thai nhi.
Hút thuố.c cũng gây nguy hại không nhỏ cho bà bầu. Thành phần hóa học trong thuố.c l.á rất phức tạp, nghiên cứu có khoảng hơn 20 chất có hại. Bà bầu hút thuố.c ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ, thậm chí gây dị tật, nặng sẽ bị sẩy thai hoặc phải bỏ thai. Hút thuố.c cũng cấm kỵ với bà mẹ đang cho con bú vì chất độc từ thuố.c sẽ truyền qua nguồn sữa vào trẻ.
Ngoài ra, bà bầu cũng phải tránh xa khỏi thuố.c l.á, bởi vì chất độc trong khói thuố.c sẽ tạo ra môi trường ô nhiễm cho sự phát triển của trẻ trong tử cung, làm cho tế bào phôi thai tăng sinh, ảnh hưởng bất lợi cho tế bào phân hóa, dẫn đến sự phát triển bất thường của thai nhi, gây chướng ngại cho hệ thần kinh như thai phát triển trong tử cung chậm chạp, nghiêm trọng làm cho não bộ không phát triển gây đần độn, ngu ngốc.
Uống rượu bia, hút thuố.c l.á là điều cấm kỵ trong thai kỳ. (ảnh minh họa)
Môi trường làm việc khép kín
Rất nhiều người nói, bà bầu ngồi lâu ở trước màn hình máy tính làm việc sẽ tăng thêm nguy cơ sẩy thai hoặc sinh non. Thực ra không phải như vậy, có kết quả nghiên cứu cho biết, người hay phải làm việc bên máy tính không có sự khác biệt rõ rệt nào trong việc sẩy thai, sinh sớm khi so sánh với những người khác.
Video đang HOT
Nhưng tại sao vẫn không nên ngồi trong văn phòng sử dụng máy tính quá lâu? Nguyên nhân là văn phòng làm việc thông thường là không gian khép kín, ánh sáng bên ngoài không đủ, không khí không lưu thông, sinh ra rất nhiều vi sinh vật gây bệnh, kết hợp với các tài liệu, giấy in dễ bay hơi độc hại… Chính môi trường làm việc như thế này gây bất lợi cho thai nhi, làm cho thai nhi phát triển chậm hoặc không phát triển hoàn thiện một số chức năng, tương lại cũng có thể dẫn đến khó phát triển trí tuệ.
Ngoài ra, thời gian ngồi một chỗ quá lâu cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của bà bầu, dễ làm cho bà bầu bị phù nề chân dưới, gây ra bệnh trĩ, không có lợi cho sinh nở, đến thời kỳ cuối còn chèn ép thai nhi trong bụng. Vì vậy, nếu có thể thay đổi sang làm công việc khác nhẹ nhàng hơn là tốt nhất, nếu không thể chuyển nên tăng cường thông gió trong phòng, chú ý tư thế ngồi và không nền ngồi một lúc quá lâu. Chủ động ra ngoài văn phòng đi đi lại lại, hít thở không khí trong lành, hoạt động cơ xương. Sau khi tan tầm nên đến nhiều chỗ có không khí trong lành tản bộ, như vậy sẽ giúp thai phát triển được toàn diện.
Uống thuố.c bừa bãi
Bà bầu bị một số bệnh nào đó sẽ nguy hại đến thai nhi, trong thời gian uống thuố.c chữa bệnh có thể một vài loại thuố.c gây ảnh hưởng gián tiếp hoặc bất lợi cho thai nhi.
Khi mang bầu trước thời gian 8 -10 tuần, nếu uống quá nhiều thuố.c kích thích như estrogen, progesterone, thuố.c chống động kinh, thuố.c chống khối u ung thư và một số loại thuố.c khác có thể gây dị tật cho thai nhi. Bởi vì 3 tháng đầu mang thai là thời gian thai nhi phát triển mạnh, sau khi thụ tinh 20 ngày phôi thai sẽ bắt đầu phát triển thịt, xương; 30 ngày sẽ từng bước thiết lập tuần hoàn má.u của phôi thai; 60 ngày sẽ hình thành khuôn mặt, tim, gan, ống tiêu hóa và cơ quan sin.h dụ.c. Nếu trong thời gian này bà bầu loạn dùng thuố.c, tỉ lệ thai bị dị tật sẽ rất cao.
Ngoài ra, sau thời gian 3 tháng và trước khi trẻ chào đời, trẻ đã hình thành nên các bộ phận trong cơ thể lại tiếp tục phát triển đến hoàn thiện. Nếu bà bầu phải uống thuố.c, thuố.c có thể thông qua nhau thai lọt vào trong cơ thể thai nhi, có thể ảnh hưởng đến chức năng phát triển của các bộ phận mô của trẻ. Vì vậy, nếu cần phải uống thuố.c các bà bầu nên triệt để tuân thủ theo chỉ dẫn của bác sỹ.
Theo Khampha
Nguyên nhân dị tật tim bẩm sinh
Dị tật tim bẩm sinh là những dị tật được hình thành từ trong thời kỳ bào thai và thường tồn tại từ khi trẻ được sinh ra.
Ảnh minh họa: Internet
Trong thời kỳ này thai nhi hình thành và phát triển trong buồng tử cung mẹ, quá trình hình thành, phát triển của quả tim và mạch má.u lớn không diễn ra bình thường sẽ gây ra dị tật.
Vì sao trái tim bị khuyết tật bẩm sinh?
Các yếu tố gây rối loạn quá trình hình thành của quả tim và mạch má.u (trong 3 tháng đầu của thai nhi) có nguy cơ gây ra những khiếm khuyết về hình thái và cấu trúc của tim và mạch má.u, tạo ra các khuyết tật bẩm sinh.
Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, chúng ta không biết nguyên nhân gì gây ra dị tật. Do vậy đừng cho rằng con mang dị tật tim bẩm sinh là lỗi của cha mẹ. Các yếu tố đã được chứng minh có liên quan tới khuyết tật tim bẩm sinh bao gồm:
Người mẹ bị nhiễm virut trong những tuần đầu khi mang thai (trong 3 tháng đầu), thì đứ.a tr.ẻ có thể mang những dị tật ở tim hoặc các bộ phận khác.
Ví dụ, nếu một bà mẹ bị nhiễm sởi Đức (rubella) trong thời kỳ mang thai (trước 20 tuần) thì virut có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tim của thai nhi hoặc có thể gây ra những bất thường về cấu trúc của các cơ quan khác như mắt, tai, não.
Một số thuố.c được người mẹ dùng không có chỉ định của bác sĩ, uống rượu, tiếp xúc với các hóa chất độc hại (thuố.c trừ sâu, thuố.c bảo vệ thực vật) trong thời kỳ mang thai cũng có thể làm tăng nguy cơ sinh con mắc dị tật tim...
Yếu tố di truyền cũng đóng vai trò trong việc hình thành các dị tật tim bẩm sinh. Có thể có nhiều đứ.a tr.ẻ trong cùng một gia đình cùng mắc dị tật bẩm sinh, nhưng điều này là rất hiếm khi xảy ra.
Một số đột biến về gen hoặc nhiễm sắc thể đặc biệt ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong đó có tim. Ví dụ như hội chứng Down (hội chứng Đao), trẻ có khuôn mặt điển hình của bệnh, trí tuệ thường chậm phát triển và thường có các dị tật tại tim.
Còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển của tim và vấn đề này vẫn đang được nghiên cứu.
Tỷ lệ mắc các dị tật tim bẩm sinh
Ước tính có gần 1% trong những đứ.a tr.ẻ sinh ra còn sống có thể bị mắc dị tật ở tim. Có những dị tật ít ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ nên không biểu hiện rõ mà chỉ tình cờ được phát hiện sau đó.Nhưng cũng có trường hợp quá nặng nề tới mức làm cho đứ.a tr.ẻ rất ốm yếu ngay từ sau khi sinh.Ngược lại một số trường hợp, các dấu hiệu của bệnh chỉ biểu hiện khi đứ.a tr.ẻ đã lớn hơn.
Tại Mỹ, trung bình mỗi năm có khoảng 36.000 trẻ được sinh ra có dị tật tim. Hầu hết những đứ.a tr.ẻ này có thể được cứu chữa sớm bằng can thiệp hoặc phẫu thuật, thậm chí là cả với các dị tật rất nặng nề.
Những yếu tố liên quan đến dị tật tim bẩm sinh
Thường xảy ra với người có nhu cầu năng lượng cao; tim đậ.p nhanh; thở nhanh; giảm ôxy má.u; giảm hấp thu thức ăn do thở nhanh và mệt mỏi; giảm hấp thu chất dinh dưỡng từ ống tiêu hóa; nhiễ.m trùn.g hô hấp thường xuyên (viêm phế quản, viêm phổi).
Sự phát triển của trẻ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền hoặc gen. Một số bệnh như hội chứng Down (ba nhiễm sắc thể số 21) có hình dạng biểu đồ tăng trưởng khác. Nguyên nhân phổ biến nhất khiến trẻ tăng trưởng chậm là trẻ không ăn đủ năng lượng và chất dinh dưỡng. Nhưng thậm chí là nếu như trẻ có vẻ dùng đủ sữa bột hoặc sữa mẹ thì vẫn có thể tăng cân rất chậm do nhu cầu năng lượng tăng hơn bình thường. Trẻ cần được cân mỗi tháng một lần. Những con số cân nặng này sẽ cho biết mức độ tăng trưởng của trẻ.
Điều trị dị tật tim bẩm sinh
Phẫu thuật:
Phương pháp đòi hỏi phải mở phanh lồng ngực, hầu hết các cuộc mổ tim đều cần phải truyền má.u. Lượng má.u cần truyền phụ thuộc vào phương pháp mổ.Nhưng hiện nay dự trữ má.u tại các bệnh viện thường không đủ, do đó gia đình có trẻ phẫu thuật cần một số người cho má.u để thay thế cho lượng má.u mà trẻ cần dùng.
Việc xét nghiệm và xử lý má.u sau khi lấy có thể mất thời gian nên gia đình có thể yên tâm do má.u sẽ dùng cho trẻ đã được kiểm tra rất kỹ lưỡng về tương thích nhóm má.u cũng như là sàng lọc loại trừ các bệnh lây qua đường má.u, bao gồm cả bệnh AIDS.
Can thiệp bằng phương pháp thông tim:
Những bệnh tim bẩm sinh có thể can thiệp được bằng phương pháp này là: Thông liên nhĩ lỗ thứ hai; còn ống động mạch; thông liên thất; hẹp van động mạch phổi, hẹp van động mạch chủ; hẹp eo động mạch chủ...
Các thầy thuố.c sẽ đưa một ống nhỏ và dài qua các mạch má.u ở ngoài để đưa đến bên trong quả tim, rồi qua đó đo đạc các thông số huyết động để đán.h giá mức độ rối loạn, đồng thời đưa các thiết bị để sửa chữa các khuyết tật bẩm sinh. Phương pháp này ngày càng phát triển, vì có nhiều ưu thế như không phải mổ phanh, thời gian hồi phục nhanh, ít gây nhiễm khuẩn và không mất má.u nhiều nên hiếm khi phải truyền má.u.Tuy nhiên đây là phương pháp có giá thành còn cao hơn so với phẫu thuật, hơn nữa không phải loại dị tật nào cũng có thể điều trị được bằng phương pháp này.
Ngoài ra còn rất nhiều dị tật khác có thể can thiệp được một cách tạm thời để chờ một cuộc phẫu thuật toàn bộ, như phá vách liên nhĩ trong bệnh teo tịt van động mạch phổi mà vách liên thất kín, đặt stent ống động mạch duy trì dòng má.u sang động mạch phổi khi bị teo tịt van động mạch phổi....
Gia đình cần làm gì để giúp trẻ?
Khám sức khoẻ định kỳ: là rất quan trọng với mọi đứ.a tr.ẻ, đặc biệt là với những trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh. Nếu biết cách chăm sóc, trẻ mắc dị tật tim cũng có thể tránh được những bệnh thông thường ở trẻ nhỏ một cách an toàn như những đứ.a tr.ẻ bình thường khác. Con bạn không cần phải dùng thuố.c kháng sinh mỗi khi bị bệnh chỉ bởi bé mắc dị tật tim bẩm sinh.
Cho dù đã được can thiệp phẫu thuật hay chưa, trẻ cũng cần được khám định kỳ và được tiêm chủng đúng lịch. Hơn nữa, trẻ còn cần được tiêm chủng bổ sung để tránh mắc các bệnh phổ biến như tiêm phòng cúm.
Để chắc chắn rằng trẻ đang phát triển tốt thì việc khám sức khỏe nói chung và tình trạng tim mạch nói riêng đều đặn là rất quan trọng. Thường thì sau khi được chẩn đoán xác định bệnh tim hoặc sau phẫu thuật tim, trẻ cần được khám lại thường xuyên hơn (hàng tuần hoặc hàng tháng) còn sau đó, số lần khám lại có thể thưa hơn (3 - 6 tháng/ lần).
Hoạt động thể lực: Hầu hết trẻ mắc dị tật tim bẩm sinh có thể sinh hoạt hay vui chơi bình thường, chỉ trừ một số hoạt động đòi hỏi gắng sức nhiều hoặc các môn thể thao mang tính chất thi đấu đối kháng. Trong thực tế, trẻ được động viên tham gia vào các hoạt động thể chất để giúp cho trái tim thích nghi tốt và trẻ có thể tận hưởng cuộc sống. Trẻ có thể tham gia vào một số hoạt động có lợi cho sức khoẻ như bơi, đi xe đạp, chạy, nhảy dây và chơi cầu lông.
Theo Sức khỏe & Đời sống
Axit folic - 'Thần dược' giúp thai nhi tránh dị tật Axit folic rất cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của thai nhi, giúp bé tránh nguy cơ bị dị tật bẩm sinh. Axit folic (hay còn gọi là folat) có chức năng cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật và cần cho sự hình thành tế bào má.u,...