3 nhược điểm lớn của các trường đại học qua kiểm định chất lượng
Đó là các nhược điểm: Chương trình đào tạo, Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển & chuyển giao công nghệ và Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên.
Thông tin trên do GS.TS Nguyễn Quang Dong, trường ĐH Kinh tế quốc dân nghiên cứu về “Những tồn tại chủ yếu của các trường đại học Việt Nam nhìn từ kết quả kiểm định chất lượng giáo dục”.
Hầu hết các trường đại học không đạt 100% tiêu chí trong kiểm định chất lượng
Từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 5 năm 2018, cả nước có 117 trường đại học và học viện được kiểm chất lượng giáo dục. Quá trình KĐCLGD các trường đại học Việt Nam được thực hiện theo Bộ tiêu chuẩn gồm 10 tiêu chuẩn, 61 tiêu chí ban hành tại Thông tư số 62/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012) và Văn bản hợp nhất số 06/VBHN-BGDĐT ngày 04/3/2014) và được thực hiện từ tháng 01 năm 2016 đến tháng 5 năm 2018.
Bốn Trung tâm KĐCLGD của Việt Nam đã đánh giá ngoài 122 trường đại học. Trong đó, 117 trường đại học đã được các Hội đồng KĐCLGD ban hành Nghị quyết công nhận đạt Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. 05 trường đại học, sau khi được ĐGN đã xin lùi thời gian kiểm định sang các năm sau, không thực hiện tiếp các khâu KĐCLGD.
Theo Bộ tiêu chuẩn kiểm định, một trường đại học sẽ không đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục khi có 13 tiêu chí trở lên trong 61 tiêu chí chưa đạt (13/61 = 21,3%); mỗi tiêu chí có từ 2 đến 6 mốc chuẩn, nếu có một mốc không đạt thì tiêu chí được đánh giá là “chưa đạt”.
3 tiêu chuẩn yếu nhất
Trong 117 trường đại học đã được KĐCLGD có 15,4% là các trường đại học tư thục, 6,8% các trường đại học thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh quản lý và 77,8% các trường đại học thuộc các Bộ và các Đại học quốc gia, Đại học vùng.
Trao đổi với PV Dân trí, GS.TS Nguyễn Quang Dong cho biết, kết quả KĐCLGD của 117 trường đại học đều được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng, trong đó một trường có số tiêu chí “chưa đạt” ít nhất là 5/61 (8,1%) tiêu chí, 25 trường (21,36% số trường) có 12 tiêu chí “chưa đạt”.12 tiêu chí chưa đạt là con số tối đa để một trường được công nhận đạt tiêu chuẩn CLGD.
Video đang HOT
Số tiêu chí và tỷ lệ % các trường đại học chưa đạt – Kết quả tính toán của GS.TS Nguyễn Quang Dong trên cơ sở dữ liệu được xây dựng từ 117 Nghị quyết của các Hội đồng KĐCLGD.
GS Dong cho biết, 10 tiêu chuẩn KĐCLGD phản ánh quản trị đại học theo từng chức năng của một trường. Mỗi tiêu chuẩn có từ 2 – 9 tiêu chí. Cụ thể:
Tiêu chuẩn và tỷ lệ phần trăm số tiêu chí chưa đạt – Kết quả tính toán trên cơ sở dữ liệu được tác giả xây dựng từ 117 Nghị quyết của các Hội đồng KĐCLGD.
Trên cơ sở dữ liệu trên, GS.TS Dong cho rằng, 3 tiêu chuẩn yếu nhất của các trường đại học là: Tiêu chuẩn 3 (Chương trình đào tạo) có tỷ phần trăm các tiêu chí chưa đạt cao nhất 27,6%; Tiêu chuẩn 7 (Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ) – 23,6% và Tiêu chuẩn 5 (Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên) – 21,5%.
Ba tiêu chuẩn các trường thực hiện tốt nhất: Tiêu chuẩn 1, Tiêu chuẩn 6 (Người học) và tiêu chuẩn 8 (Hợp tác quốc tế). Các Tiêu chuẩn này có tỷ lệ các tiêu chí chưa đạt nhỏ hơn 10%.
Giải thích vì sao nhiều trường có tỷ lệ tiêu chí chưa đạt ở mức cao, GS Dong cho biết, trong tiêu chuẩn 3, lý do các trường có tỷ lệ cao các tiêu chí chưa đạt là: các chương trình đào tạo khi xây dựng mới/bổ sung chưa khảo sát thị trường, chưa tham khảo các chương trình đào tạo tiên tiến của các trường trong và ngoài nước, chưa có chuẩn đầu ra, chuẩn đầu ra về ngoại ngữ chưa đáp ứng quy định, chưa định kỳ đổi mới chương trình đào tạo, chưa đánh giá chương trình đào tạo…
Lý do dẫn đến Tiêu chuẩn 7 có tỷ lệ các tiêu chí chưa đạt cao: các trường chưa có số lượng công bố khoa học, chưa có số đề tài nghiên cứu, triển khai ứng dụng, chuyển giao công nghệ phù hợp với quy định và năng lực của trường, chưa đầu tư cho nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên theo quy định…
Tiêu chuẩn 5 có tỷ lệ các tiêu chí chưa đạt cao là do: thiếu cán bộ (cấp phòng, khoa, bộ môn) dẫn đến bổ nhiệm cán bộ không phù hợp với nhiệm vụ được giao, tỷ lệ sinh viên/giảng viên cao, cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa phù hợp về tuổi đời, tuổi nghề…
Về tổ chức và quản lý, theo GS Dong, tỷ lệ các trường chưa đạt là 35,9% và 33,3%. Cụ thể, đánh giá cơ cấu tổ chức của trường đại học theo Điều lệ trường đại học và các quy định pháp luật khác có liên quan, được cụ thể hóa trong quy chế về tổ chức và hoạt động của trường.
Về mặt nội hàm, các trường đại học phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với quy định pháp luật và cơ cấu tổ chức này phải được văn bản hóa. 3 nhóm lý do dẫn đến 35,9% số trường chưa đạt tiêu chí này là:
Trường đại học công lập chưa có Hội đồng Trường. Nguyên nhân chưa có Hội đồng trường do sự chậm trễ trong phê duyệt của cơ quan chủ quản cấp trên. Đối với các trường tư thục, lý do là thành viên của Hội đồng quản trị chưa phù hợp theo quy định…
Từ kết quả khảo sát, GS Dong kiến nghị, Bộ GD&ĐT cần tổng kết công tác KĐCLGD, với các các tiêu chuẩn có kết quả kiểm định xấu, cần có các chính sách/quy định để các trường tích cực điều chỉnh các hoạt động, khắc phục yếu kém của trường, từ đó toàn hệ thống sẽ tốt hơn.
Theo Dân trí
Nhìn đúng về kiểm định chất lượng
Kiểm định chất lượng (KĐCL) là hoạt động đánh giá toàn diện các mặt của một chương trình đạo tạo (nếu KĐCL chương trình) hoặc các mặt hoạt động của trường đại học (nếu KĐCL cơ sở giáo dục). Đây là công cụ quan trọng để bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó có giáo dục ĐH.
Kiểm định chất lượng phải có tính độc lập để đảm bảo tính khách quan trong đào tạo
Những năm qua, công tác quản lý, cải tiến chất lượng giáo dục được đặc biệt chú ý. Các tổ chức chuyên trách về đánh giá, KĐCL được thành lập. Ngoài Cục Khảo thí và KĐCL được thành lập năm 2008, Phòng Khảo thí và KĐCL đã được thành lập tại Sở GD&ĐT; đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường ĐH, CĐ trên cả nước.
Từ năm 2007 công tác đánh giá chất lượng tại các cơ sở giáo dục ĐH trên toàn quốc đã được khởi động dựa trên bộ tiêu chuẩn chính thức gồm 10 tiêu chuẩn và 61 tiêu chí. Từ tháng 7/2017, công tác KĐCL được thực hiện theo Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT. Các văn bản này đều được công khai và có trên mạng, chỉ bằng một click chuột, bất cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu đều có thể đọc, nghiên cứu.
Có thể còn ý kiến khác nhau về cách xác định tiêu chuẩn, nhưng từ nội dung của Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT có thể khẳng định rằng các tiêu chuẩn đánh giá này bao quát toàn diện mọi hoạt động của trường ĐH: Từ sứ mạng, tầm nhìn, văn hóa, cơ cấu quản trị, chính sách các mặt của trường, quản lý các nguồn lực (con người, cơ sở vật chất và tài chính); đến các hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong; việc thực hiện các chức năng của trường ĐH như đào tạo, người học, nghiên cứu, đóng góp phát triển cộng đồng; các kết quả hoạt động về đào tạo, NCKH, phát triển cộng đồng; thậm chí cả kết quả về tài chính, vị trí trong hệ thống giáo dục ĐH.
Tuy nhiên, vẫn có ý kiến nhìn nhận về hoạt động kiểm định ĐH vừa qua là "áp dụng kiểm định chỉ định", hoặc "chỉ kiểm định cơ sở vật chất mà không kiểm định giáo viên; trong khi người dạy, người học mới là yếu tố chính quyết định chất lượng đào tạo".
Bày tỏ sự ngạc nhiên về điều này, GS.TS Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) - một trong những người nghiên cứu và thực hành về kiểm định tại Việt Nam - cho rằng, dường như người có cách hiểu như trên nhầm giữa "KĐCL giáo dục" với việc "thẩm định các điều kiện đảm bảo chất lượng" - thực chất là xác minh xem số lượng giảng viên và cơ sở vật chất có đúng như trường đã nêu trong đề án tuyển sinh, một hoạt động mà năm ngoái Bộ GD&ĐT có ủy quyền các Trung tâm KĐCL thực hiện.
Đây thực ra là 2 việc khác nhau, phục vụ các mục đích khác nhau, cách thực hiện khác nhau. Các trung tâm KĐCL giáo dục chỉ thực hiện việc thẩm định "điều kiện đảm bảo chất lượng" một lần năm 2017 và phục vụ cho việc tuyển sinh ĐH năm đó, nhưng không liên quan gì đến hoạt động KĐCL giáo dục của trường.
Đến nay, Bộ GD&ĐT đã cấp phép hoạt động cho 5 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục. Các trường ĐH của Việt Nam được toàn quyền quyết định lựa chọn đơn vị kiểm định hợp pháp, kể cả đăng ký kiểm định với các tổ chức đánh giá, KĐCL giáo dục của nước ngoài, để KĐCL.
Điều này có nghĩa, không có chuyện chỉ định trường phải làm kiểm định ở trung tâm hay bất kì tổ chức nào. Chưa kể, khi đánh giá, các đoàn đánh giá phải nghiên cứu minh chứng, phỏng vấn tất cả các nhóm liên quan, khảo sát, tham quan thực địa, kiểm tra ngẫu nhiên các mặt hoạt động của trường. Tức là, các quá trình đánh giá, kết quả đánh giá dựa trên minh chứng, được kiểm tra chéo lẫn nhau để đảm bảo thông tin xác thực.
Thêm nữa, có một điểm nhiều người chưa biết là các trường ĐH thành viên của các ĐH có trung tâm KĐCL giáo dục không được đăng ký kiểm định tại trung tâm của ĐH đó. Ví dụ, các trường thành viên của ĐHQG Hà Nội không được đăng ký KĐCL tại Trung tâm KĐCL giáo dục - ĐHQG Hà Nội mà phải đăng ký kiểm định của một tổ chức bên ngoài. Việc này để đảm bảo tính khách quan, độc lập.
Việc cần làm trong thời gian tới, theo nhiều chuyên gia, là đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Quỹ kiểm định độc lập, tăng cường các chế tài gắn với kiểm định, thí dụ, gắn mức độ trao quyền tự chủ với kết quả kiểm định; đổi mới chương trình đào tạo đội ngũ kiểm định viên; đào tạo đủ số lượng, cơ cấu và chất lượng các kiểm định viên để triển khai các hoạt động kiểm định cấp độ chương trình. Trong tương lai, cần đẩy mạnh áp dụng một số phương thức quản lý chất lượng giáo dục tiên tiến trên thế giới như mô hình PDCA (Plan-Do-Check-Act), hướng tới nâng cao chứ không chỉ là "đảm bảo" chất lượng.
Tâm An
Theo giaoducthoidai
Kiểm định chất lượng phải có tính độc lập để đảm bảo tính khách quan trong đào tạo
Đại học "lộ" hàng loạt yếu kém nhưng vẫn đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục? Trong giai đoạn từ tháng 1-2016 đến ngày 31/5/2018, 4 Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam đã đánh giá ngoài 122 trường đại học thì có 117 trường đại học/học viện đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục, chỉ có 5 trường đại học/học viện là chưa được công nhận. Chất lượng nhiều trường đại...