3 hiểu lầm trầm trọng quanh việc ăn tôm
Tôm là thực phẩm bổ dưỡng và là món ăn ưa thích của nhiều người. Thế nhưng, một số người vẫn còn có những hiểu lầm quanh chuyện ăn tôm thế nào cho đúng.
Tôm có hàm lượng đạm tương đương với các loại thịt động vật khác, ngoài ra nó còn rất giàu canxi, photpho, acid béo không cholesterol và các chất khoáng cần thiết cho cơ thể… vì vậy, có thể nói tôm là thực phẩm không thể thiếu trong khẩu phần ăn của chúng ta. Theo viện Tim mạch Hoa Kỳ (AHA), các chất có trong tôm còn giúp bạn giảm các nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đột quỵ và một số bệnh ung thư hiệu quả cũng như củng cố hệ xương khớp.
Tuy nhiên, không ít người vẫn còn có những hiểu lầm về món ăn này, điều này khiến cho việc ăn tôm không đạt hiệu quả tốt nhất. Dưới đây là 3 hiểu lầm phổ biến về ăn tôm mà bạn nên tham khảo.
1. Vỏ tôm giàu canxi nhất
Không ít người cho rằng, vỏ tôm cứng nên chứa nhiều canxi nhất, vì vậy, khi ăn họ thường cố gắng ăn cả vỏ. Tuy nhiên, thực tế thì vỏ tôm không hề giàu canxi như vậy. Nguồn canxi chính của tôm chủ yếu ở thịt, chân và càng. Nếu ăn phải vỏ tôm sẽ bài tiết ra ngoài. Vỏ tôm chỉ là chất kittin, caasi tạo nên vỏ của các loại giáp xác chứ không chứa nhiều canxi.
Vì vậy, nếu chế biến đồ ăn cho trẻ con, bạn đừng cố bắt trẻ ăn vỏ tôm vì có thể gây hóc.
Tôm là thực phẩm bổ dưỡng và là món ăn ưa thích của nhiều người. Ảnh minh họa
Video đang HOT
2. Ăn mắt tôm bổ mắt
“Ăn mắt bổ mắt”, đó là quan niệm của nhiều người, đặc biệt đó lại là mắt tôm vì tôm rất giàu giá trị dinh dưỡng. Nhiều người còn cho rằng 2 mắt tôm còn có tác dụng như 2 viên viagra cho đàn ông. Thực tế, chưa có nghiên cứu cụ thể và đáng tin cậy nào chứng tỏ tác dụng của đầu tôm cũng như mắt tôm đối với sức khỏe con người.
Cũng giống như vỏ tôm, đầu tôm chỉ là lớp vỏ chứ không chứa nhiều dinh dưỡng như thịt tôm, vì vậy, nó cũng không có tác dụng gì trong chuyện phòng the của các quý ông.
3. Mới sinh em bé không được ăn tôm
Theo dân gian thì sản phụ sau khi sinh không nên ăn tôm vì ăn tôm sẽ gây lạnh bụng, đau bụng. Những người sinh mổ nếu ăn tôm có thể dẫn đến sẹo lồi. Nhưng thực tế không có nghiên cứu nào chứng tỏ ăn tôm sẽ làm cho vết sẹo sau mổ to hơn hay lồi lên. Nếu bạn bị sẹo lồi sau mổ thì đó là do vấn đề cơ địa của bạn mà thôi.
Tôm cũng là thực phẩm giàu protein, tốt cho sản phụ phục hồi sức khỏe nhanh chóng. Hơn nữa, tôm còn giàu canxi nên người mẹ ăn tôm sẽ cung cấp canxi cho con qua sữa mẹ. Tuy nhiên, ăn nhiều tôm có thể gây khó tiêu hóa, vì vậy, sản phụ sau khi sinh chỉ nên ăn với lượng vừa phải.
Mặc dù tôm có giá trị dinh dưỡng cao nhưng phải là những thực phẩm tươi ngon, không bị nhiễm khuẩn. Những con tôm bị chết, ôi, ươn, hoặc nhiễm khuẩn thường không những không có giá trị dinh dưỡng mà còn có thể gây ngộ độc khi ăn, rấtnguy hiểm cho sức khỏe. Nếu bạn là người bị dị ứng với món ăn này (nổi mề đay khi ăn tôm) thì hãy lưu ý và tránh ăn nhiều.
Theo VNE
Luẩn quẩn stress - vảy nến
Stress là một trong những yếu tố làm khởi phát và trầm trọng bệnh vảy nến. Ngược lại, căn bệnh mạn tính phiền toái này cũng có thể gây những chấn thương tâm lý trầm trọng ở người mắc phải
Vảy nến là một bệnh da mạn tính phát sinh trên một cơ địa di truyền hoặc bị đột biến gien, được "khởi động" bởi một số yếu tố: Chấn thương tâm lý, chấn thương da, nhiễm khuẩn khu trú, một số thuốc, chất kích thích, thức ăn, khí hậu, thời tiết... Trong đó, chấn thương tâm lý là yếu tố rất cần lưu tâm ở quá trình điều trị bởi nó vừa đóng vai trò chất xúc tác làm khởi phát và tăng nặng bệnh vừa là một trong những hậu quả mà căn bệnh phiền toái này gây nên ở người mắc. Điều trị stress là một bước bắt buộc để giúp khống chế bệnh, kéo dài thời gian ổn định và thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn stress - bệnh - stress. Đó là những thông tin được các bác sĩ chuyên khoa da liễu đưa ra tại hội nghị kỷ niệm Ngày Vảy nến thế giới 29-10 do Bệnh viện (BV) Da liễu TP HCM tổ chức sáng 29-10.
Phân nửa bệnh nhân gặp stress
Theo một khảo sát trên 153 bệnh nhân vảy nến tại Việt Nam của PGS-TS-BS Đặng Văn Em, Trưởng Khoa Da liễu BV Trung ương Quân đội 108, có đến 46,4% người bị stress, trong đó stress thể lực chiếm 12,68%, stress trí lực 16,9% và stress xúc cảm gặp nhiều nhất, chiếm 70,2%.
Một trường hợp vảy nến đỏ da toàn thân. (Ảnh do Bệnh viện Da liễu TP HCM cung cấp)
Các nguyên nhân chủ yếu gây stress bao gồm: Mặc cảm "bệnh xấu xí"; gánh nặng về tài chính do phải điều trị suốt đời; phải trải qua nhiều đợt điều trị, nhiều cơ sở điều trị, nhiều bác sĩ điều trị; không thoải mái trong quan hệ xã hội, vợ chồng, bạn bè... do các tổn thương xuất hiện ở vùng hở.
Một nghiên cứu khác trên 64 bệnh nhân cũng cho thấy 50% bị căn bệnh làm ảnh hưởng chất lượng cuộc sống, sa sút tinh thần, thiếu tự tin, lo sợ, những cơn tức giận vô cớ thường xảy ra và liên quan đến các đợt kịch phát. Thậm chí, khảo sát trên một nhóm 217 người khác còn cho thấy 9,7% muốn tự tử và 5,5% đã nêu ý tưởng tự tử, đều ở bệnh nhân vảy nến mức độ nặng.
40,8% bệnh nhân của một nhóm 120 người được lấy ý kiến cũng tiết lộ hoạt động tình dục của họ bị sa sút kể từ khi mắc bệnh. Một số bệnh nhân khác "ám ảnh" rằng vảy nến là một bệnh lây dù đã được bác sĩ cam đoan rằng không lây.
Tránh những cơn bùng phát
ThS-BS Võ Quang Đỉnh, Bộ môn Da liễu Trường ĐH Y Dược TP HCM, cho biết tuy là bệnh mạn tính, kéo dài và không thể chữa khỏi hoàn toàn nhưng 50% trường hợp bị vảy nến có thể giảm tự nhiên và kéo dài thời gian thuyên giảm khá lâu, có người vài năm, người đến mấy chục năm.
Có nhiều phương pháp cần áp dụng song hành để kéo dài giai đoạn thuyên giảm đó, bao gồm việc chăm sóc y tế, chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt phù hợp và cả giảm stress. Bởi lẽ, stress có thể khiến căn bệnh này khởi phát, làm trầm trọng cũng như tạo ra đợt bùng phát ở người mang bệnh và đang ổn định. Stress có thể tìm đến người bệnh tương ứng với các giai đoạn: Vừa phát hiện và được chẩn đoán bệnh, đang điều trị ổn định, điều trị không được như mong muốn, bệnh tiến triển mạn tính nhiều năm. Trong nhiều trường hợp, bệnh nhân cần sự hỗ trợ điều trị từ các chuyên gia tâm lý - tâm thần.
Theo PGS-TS-BS Đặng Văn Em, nhiều nghiên cứu cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa bệnh vảy nến và stress, đồng thời có mối liên quan thuận chiều giữa độ nặng của các triệu chứng vảy nến và stress tâm lý. Một nghiên cứu trên 179 bệnh nhân vảy nến cho thấy có tới 72% trường hợp gặp nhiều biến cố gây stress vào khoảng 1 tháng trước khi bệnh khởi phát.
Điều trị stress song hành với các bước điều trị vảy nến khác đã có nguồn gốc từ rất xa xưa. Một y văn của Ba Tư từ thế kỷ XII cho thấy một số trường hợp vảy nến được khống chế thành công bằng thôi miên thư giãn và các phương pháp tâm lý.
BS Võ Quang Đỉnh khuyến cáo các bệnh nhân nên chú ý tái khám thường xuyên, kể cả trong giai đoạn ổn định, nhằm phòng tránh bùng phát bệnh. Các đợt bùng phát bệnh vừa gây ảnh hưởng đến cuộc sống vừa góp phần khiến chấn thương tâm lý ở người mắc trầm trọng hơn.
Tập "sống chung với bệnh"
Theo ThS-BS Nguyễn Thị Phan Thúy, Khoa Khám bệnh BV Da liễu TP HCM, cách tốt nhất để hạn chế stress là tập "sống chung với bệnh", tự chăm sóc bản thân để giữ bệnh trong tình trạng ổn định. Bệnh nhân nên chú ý 8 yếu tố: Giữ sức khỏe tốt, nhất là có giấc ngủ đủ và chế độ dinh dưỡng phù hợp; hiểu rõ các yếu tố nguy cơ; phát hiện sớm triệu chứng của các đợt bùng phát, trong đó cần chú ý đến biến chứng viêm khớp (10%-30% trường hợp) và trị sớm để tránh biến dạng khớp; bỏ thuốc lá; hạn chế rượu bia; tránh stress (tham gia hoạt động xã hội, tư vấn tâm lý, tập thể dục...); tự chăm sóc da (tránh tắm nước quá nóng, tránh hóa chất, hương liệu, tránh làm bong tróc tổn thương và mặc quần áo bằng sợi tự nhiên); kiểm soát ngứa qua bác sĩ.
Theo VNE
Những sai lầm trầm trọng trong vệ sinh an toàn thực phẩm Dưới đây là một số sai lầm phổ biến trong vệ sinh an toàn thực phẩm đã được chứng minh là gây ra bệnh nghiêm trọng. 1. Nếm thực phẩm xem còn tốt không? Tại sao: Chúng ta không thể nếm (hay ngửi hoặc nhìn thấy) các vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm. Nếm chỉ một lượng nhỏ có thể gây bệnh...