22 năm dạy chữ ở làng phong
22 năm qua, cô Hà Thị Thu Oanh (giáo viên trường Tiểu học Trưng Nữ Vương, TP Đà Nẵng) chưa một lần hối hận khi tình nguyện đến gieo chữ ở làng phong Hòa Vân (TP Đà Nẵng).
Tôi phải đến làng phong!
20 tuổi, sau khi tốt nghiệp trường Trung học Sư phạm Đà Nẵng, cô Hà Thị Thu Oanh (quê ở Điện An 1, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) về dạy tại trường Phổ thông Cơ sở Tiên Lãnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Ba năm sau, cô Oanh quyết định tình nguyện dạy ở làng phong Hòa Vân.
Cô Oanh cho biết, hè năm 1989, một lần ra thăm bà con ở đây, tiếp xúc các con ở làng phong trong thời gian học hè, cô không thể kìm lòng trước tình cảm lưu lưu luyến. Khi trở lại trường, hình ảnh các em luôn ẩn hiện trong tâm trí. Năm 1990, cô xin chuyển về trường, trực tiếp dạy tại Làng Vân.
“Mình đã suy nghĩ nhiều trước sự phản đối của bạn bè, bạn trai, gia đình. Nhưng mình vẫn quyết tâm ra làng phong. Ngày đầu khó khăn lắm. Nhưng, với tình cảm yêu thương đùm bọc của bà con, các em nhỏ, thực sự mình không thấy ận hận”- cô Oanh tâm sự.
Cô giáo Hà Thị Thu Oanh
Cô Oanh là một trong những giáo viên đầu tiên về làng phong Hòa Vân dạy học. Lớp học ban đầu chỉ vỏn vẹn tám học sinh của lớp ghép 1-2-3. Ngoài ra, còn một thầy giáo khác dạy lớp 4 (ngày đó chưa có học sinh lớp 5).
Video đang HOT
Nhiều giáo viên đến làng phong dạy học nhưng sau một thời gian ngắn, họ đều ra đi. Tuy nhiên, cô Oanh lại khác: “Người thân, bạn bè khuyên tôi đừng dạy ở đây, sợ lây bệnh, nhưng ánh mắt của các em níu tôi ở lại”, cô Oanh chia sẻ về quyết định ở lại của mình.
Hạnh phúc
Trải lòng về những ngày đầu gieo chữ ở làng phong, cô Oanh nói: “Ngày đầu ra đó, xa nhà cả 30 km, nhưng cứ ngày nghỉ là về nhà. Lúc đó, chỉ có cách duy nhất là đi bộ. Một là đi dưới chân đèo Hải Vân, hai là theo đường hầm tối tăm. Đi qua đó mà không quen đường rất nguy hiểm. Vừa đi vừa canh tàu, đang đi nghe tiếng tàu là vội kiếm chỗ tránh”.
Những ngày đầu, ở làng phong không có điện, chỉ thắp đèn dầu, thiếu thốn trăm bề: “Không ti vi, không bạn bè, người thân bên cạnh. Chợ không có, chỉ có rau, trứng và cá phụ huynh đem cho”- cô Oanh tâm sự.
“Mức lương thấp nhưng ở làng phong tôi đâu có tiêu gì. Mình khó khăn nhưng đồng nghiệp của mình còn khó khăn hơn nhiều lắm”.
Vượt lên những khó khăn đời thường, cô Oanh mỉm cười khi nói về “điều hạnh phúc nhất”: “Hạnh phúc của tôi là sự trưởng thành của học sinh vùng khốn khó”.
Mắt cô ngân ngấn nước khi kể về các học trò “đặc biệt” của mình: “Các em không chỉ biết đọc, viết. Không ít em đã trở thành thạc sĩ, cử nhân, đang góp sức xây dựng quê hương. Đã ra đến đây, tôi không ngại khó chỉ mong các em học giỏi, có tương lai tươi sáng. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của người làm nghề giáo”, cô Oanh nói.
Tháng 9/2012, TP Đà Nẵng có chủ trương đưa con em làng phong vào hòa nhập ở các trường của TP Đà Nẵng. Không còn lớp học ở làng phong nữa, cô Oanh chuyển về dạy tại trường Tiểu học Trưng Nữ Vương.
Hạnh phúc đến khi năm 34 tuổi, cô lập gia đình. Hạnh phúc riêng đến muộn xứng đáng với “người thầy” hàng chục năm đứng trên bục giảng. Vậy là, trong niềm vui của nữ giáo viên hôm nay, không chỉ có nụ cười của bao thế hệ học sinh, mà còn là gia đình đầm ấm với hai con trai học lớp bốn và sáu.
Tháng 11/2012, cô Hà Thị Thu Oanh là một trong 129 nữ nhà giáo tiêu biểu đang công tác tại vùng biên giới, hải đảo, vùng cao, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, được biểu dương và nhận bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
Theo tiền phong
Khi lương nhà giáo không đủ sống
Kiến nghị của GS Hoàng Tụy về Cải cách giáo dục (CCGD) nêu vấn đề cấp bách số 1 cần giải quyết là cần cải thiện chính sách đối với người thầy.
Theo ông, lương thấp đương nhiên nhà giáo phải xoay xở để kiếm thêm thu nhập. Chính đó là cái lỗ hổng quản lý gây nên hoặc làm trầm trọng thêm hầu hết các căn bệnh trầm kha đã ra sức tàn phá giáo dục.
Một nhà khoa học lớn nước ngoài tâm huyết với Việt Nam khi được hỏi về điều gì cần thay đổi cấp bách nhất để chấn hưng giáo dục, đặc biệt là ĐH, đã không chút ngần ngại nói ngay đó là chế độ lương kỳ quặc không thấy đâu trong thế giới văn minh nhưng đã tồn tại dai dẳng ở Việt Nam từ hàng chục năm nay. Một chế độ lương biểu thị không gì khác hơn là sự khinh miệt đối với lao động giáo dục và khoa học, trái hẳn với chủ trương tôn vinh nhà giáo đã được lãnh đạo khẳng định lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần suốt thời gian qua.
Ảnh Lê Anh Dũng
Với đồng lương thấp đến mức khó tưởng tượng, đương nhiên nhà giáo và các quan chức giáo dục đều phải xoay xở để kiếm thêm thu nhập. Chính đó là cái lỗ hổng quản lý gây nên hoặc làm trầm trọng thêm hầu hết các căn bệnh trầm kha đã ra sức tàn phá giáo dục. Chúng ta nói nhiều đến bệnh giả dối, bệnh gian dối, bệnh thành tích ảo... nhưng làm sao chống được các bệnh ấy để có một nên giáo dục trung thực, lành mạnh... nói chi đến hiện đại, nếu cái nguyên nhân gây ra các bệnh ấy nằm ngay trong cơ chế, nói cách khác nằm ngay trong khuyết tật hệ thống của giáo dục?
Sự thật, nhờ xoay xở đủ mọi cách hợp pháp hay không hợp pháp, hợp lý hay trái với lương tâm, phần lớn nhà giáo, nhất là quan chức giáo dục, nay đã có mức sống không đến nỗi quá tệ, thậm chí một bộ phận nhỏ còn có thu nhập khá. Song cái giá phải trả thật quá đắt. Những giải pháp chữa cháy gần đây theo kiểu "kế hoạch 3" hồi những năm 80 thế kỷ trước, hay cho phép nhiều cơ sở giáo dục vượt rào để xử lý từng trường hợp riêng lẻ về lâu dài rất nguy hiểm, chỉ gây thêm rối loạn, dẫn đến bất công và tiêu cực ngày càng tệ hại hơn.
Điều không may mắn là giải quyết vấn đề cốt tử này cực kỳ khó vì căn bệnh từ lâu đã thành một thứ ung thư của cả xã hội, chứ không riêng gì của giáo dục, lại gắn liền chặt chẽ với quốc nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng chóng mặt. Trước mắt chưa thể hy vọng có thể chữa trị nhanh chóng cái ung thư này, cho nên giáo dục phải tìm mọi cách tự cứu lấy mình trong phạm vi có thể, may ra còn nêu gương cho các ngành khác để tiến dần đến một giải pháp chung.
Theo tính toán của nhiều chuyên gia, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng dù trong phạm vi cả nước còn khó khăn thì ngay trong nội bộ ngành giáo dục, vẫn có thể rà soát lại cơ chế tài chính, kiên quyết bỏ hay giảm bớt mọi khoản chi tiêu không hiệu quả, trên cơ sở đó tăng lương, bảo đảm lương đủ sống và dần dần trở thành thu nhập chính của mỗi người, từ đó lập lại kỷ cương, đạo đức trong giáo dục.
Trong một xã hội mà đời sống kinh tế bị thao túng nặng nề bởi các "nhóm lợi ích", ai cũng thấy đây là việc vô cùng khó, tuy khả thi về điều kiện vật chất khách quan nhưng chắc chắn sẽ vấp trở ngại cực kỳ lớn.
Biết thế, song giáo dục là lĩnh vực cần bảo vệ trong sạch nhất, nếu không cương quyết làm bây giờ mà cứ trì hoãn mãi thì sẽ ngày càng khó hơn và sẽ chẳng bao giờ có hy vọng trả lại lòng tự trọng cho giáo dục, chẳng bao giờ xây dựng được một nền giáo dục lành mạnh, trung thực, hiện đại.
Thật đau xót, nhục nhã, khi các chức vụ quản lý lớn nhỏ trong những tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm ăn kém hiệu quả, nếu không phải là thua lỗ triền miên, vẫn được trả lương cao gấp mấy chục lần các giáo sư ĐH. Sự thể đó cứ thản nhiên tồn tại năm này qua năm khác, song song với khẩu hiệu đã thành nhàm chán vì lặp đi lặp lại 15 năm nay mà chưa bao giờ đi vào cuộc sống: giáo dục, khoa học là quốc sách hàng đầu.
Theo GS Hoàng Tụy
Vietnamnet
Giáo viên đi... cày! Gần phân nửa thầy cô ở vùng cao là giáo viên hợp đồng, lương chỉ 900.000 đến 1 triệu đồng/tháng. Vì vậy, ngoài giờ lên lớp, họ phải làm thêm đủ thứ việc như cày ruộng, hái măng... để có thêm thu nhập. "Sinh con được ba tháng là em phải gửi con cho mẹ rồi lên đây ngay. Đêm đêm ngực đau...