10 điểm khác chính giữa Fujifilm X-T3 và Sony A7 III
Fujifilm đã trải qua một chặng đường dài kể từ khi ra mắt chiếc máy ảnh mirrorless có thể thay ống kính đầu tiên của hãng, X-Pro1, nỗ lực không ngừng để cải thiện hiệu suất sản phẩm bằng cách loại bỏ dần các nhược điểm như lấy nét tự động chậm hay khả năng video yếu kém, mà vẫn giữ được thiết kế thân thiện với người dùng không ngừng khiến chúng ta mê mẩn.
X-T3 nâng cả dòng máy X lên một tầm cao mới. Bằng cách nào đó, nó vượt trội hơn hẳn trong cuộc chiến phân khúc mirrorless nhờ các khả năng video ấn tượng (bao gồm khả năng quay phim 4K/60 10-bit trong), hệ thống lấy nét tự động mới và chế độ Live View blackout-free hoàn toàn (là máy ảnh mirrorless thứ hai sau Sony A9 làm được điều này). Các tính năng trên kết hợp lại với nhau khiến chiếc máy ảnh APS-C này trở thành một trong chiếc máy ảnh cao cấp nhất trên thị trường ngày nay.
A7 III là máy ảnh nổi tiếng nhất của Sony tính đến thời điểm hiện tại bởi kế thừa rất nhiều tinh hoa từ các máy ảnh flagship. Chất lượng hình ảnh, video và lấy nét tự động của nó đã trở thành chuẩn mực của cả thị trường, thêm vào đó là giá bán rất cạnh tranh trong phân khúc full frame/35mm.
Dĩ nhiên là có rất nhiều điểm khác nhau giữa hai chiếc máy ảnh này, bắt đầu từ định dạng cảm biến và giá bán. Nếu bạn tò mò tại sao chúng ta lại chuẩn bị so sánh chúng thì câu trả lời rất đơn giản: đây là cơ hội để thấy được làm thế nào sản phẩm mới ra mắt sẽ đối đầu với một trong những sản phẩm đã khẳng định danh tiếng nhất nhì thị thường. Từ đó, những người dùng tương lai cũng sẽ có quyết định đúng đắn để chọn được sản phẩm hợp lý nhất cho bản thân.
1. Định dạng cảm biến
Cả hai máy đều được trang bị cảm biến có thiết kế BSI (backside illuminated) và độ phân giải tương đương nhau (24.3MP trên A7 III; 26.1MP trên X-T3). Điểm khác biệt lớn nhất tất nhiên là kích cỡ cảm biến: Sony A7 III sử dụng cảm biến full-frame/35mm, trong khi Fujifilm X-T3 sử dụng cảm biến APS-C.
Một điểm khác nữa là bố cục điểm ảnh: Sony sử dụng loại bố cục Bayer tiêu chuẩn với mỗi dòng nhúng hai trong ba màu đỏ, lục, lam, còn Fujifilm sử dụng loại bố cục X-Trans cho phép mỗi dòng nhúng tối thiểu một điểm ảnh đỏ, lục và lam.
X-T3 có dải ISO thường 160-12800, với tùy chọn mở rộng xuống đến 80 hoặc lên dến 51200. A7 III có dải ISO thường 100-12800, với tùy chọn mở rộng xuống đến 50 hoặc lên dến 204800.
Nhờ mô hình X-Trans, X-T3 không cần kính lọc low-pass để giảm lỗi moiré, trong khi A7 III phải sử dụng một kính lọc AA yếu. Việc Fuji chọn mô hình điểm ảnh khác biệt đã chia rẽ cộng đồng nhiếp ảnh bởi file RAW khó kiểm soát hơn, với một số phần mềm như Lightroom thậm chí còn chật vật hơn. Chính vì điều này mà nhiều người dùng né tránh máy ảnh Fujifilm, còn một số khác chỉ đơn giản là chấp nhận. Cùng chờ xem lần này các phần mềm chỉnh ảnh sẽ làm việc thế nào với các file RAW 26.1MP mới.
2. Thông số và tính năng video
Dòng Sony Z7 thành công một phần nhờ vào các tính năng video ổn định. Cho đến hiện tại, Fujifilm vẫn chưa ưu tiên mảng video, mặc dù hãng đã cố chứng minh mình có đủ khả năng sản xuất các tính năng video xuất sắc bằng X-T2 và X-H1, ví dụ như về colour profile. X-T3 một bước thay đổi mọi thứ bởi giờ đây nó mang đến những tính năng video mà không có máy ảnh nào khác sánh kịp.
Cả hai máy có thể quay 4K (38402160) đến 30fps, nhưng chỉ có X-T3 mới quay được lên đến 60fps. Đồng thời còn có những điểm khác biệt quan trọng khác gồm colour depth, compression, bitrate và video output. Cụ thể:
Fujifilm X-T3
4K đến 60fps
Cinema 4K/DCI đến 60fps
4K đến 400Mbps
4K với nén IPB hoặc All-I
Codec H.264 và H.265
Quay trong 4:2:0 10-bit
Quay ngoài in 4:2:2 10-bit
Sony A7 III
4K đến 30fps
Không có Cinema 4K/DCI
4K đến 100Mbps
4K với nén IPB
Codec X AVC S
Quay trong 4:2:0 8-bit
Quay ngoài 4:2:2 8-bit
Một trong những tính năng quan trọng nhất bên trên là 10-bit, đồng nghĩa là X-T3 có thể quay phim với độ sâu màu hơn 64 lần so với 8-bit của A7 III. Điều này đã được kiểm chứng cho cả quay trong vào thẻ SD và qua HDMI nếu người dùng muốn dùng thiết bị quay ngoài.
Máy ảnh của Sony quay được 4K ở 24fps và 25fps mà không crop cảm biến và với khả năng xử lý điểm ảnh toàn diện, đảm bảo nhiều chi tiết gãy gọn và sắc nét. Ở 30fps xuất hiện crop 1.2x. X-T3 xử lý điểm ảnh toàn diện trên toàn bộ chiều rộng của cảm biến lên đến 30fps, ngược lại ở 50 hay 60p sẽ crop 1.18x. A7 III cũng có một chế độ APS-C/Super35 sản sinh mức crop 1.5x.
Ở Full HD, cả hai máy quay được đến 120fps. A7 III quay được đến tốc độ khung hình này với âm thanh hoặc tương thích với cảnh phim đến 25p hoặc 30p để sản xuất được phim slow motion ngay trong máy ảnh. Chế độ tương tự (Quick&Slow) cho phép người dùng chọn tốc độ khung hình thấp để tăng tốc cho video. X-T3 có thể quay đến 60fps ở chế độ video thường hoặc lên đến 120fps với chế độ High Speed Rec. Với chế độ High Speed Rec, cảm biến sẽ bị crop 1.29x để cải thiện chất lượng, ngược lại Sony không áp dụng mức crop nào.
Đối với các thiết lập video đa dạng, Fujifilm có hai profile thiết kế cho video: Eterna – ra mắt lần đầu trên X-H1 và profile gamma F-Log dùng được cho cả quay trong và quay ngoài. Cập nhật phần mềm trong tương lai còn sẽ mang HLG (Hybrid Log Gamma) – tương thích với TV HDR – xuống X-T3. Người dùng có thể thay đổi các thiết lập như giảm nhiễu và dynamic range phạm vi 12 stop khi chọn mức DR400%.
Video đang HOT
A7 III cho nhiều tùy biến ảnh hơn với 10 Picture Profiles tùy chọn. Người dùng sẽ có các thiết lập như Black Pedestal, Knee, nhiều chế độ màu cinema và phát sóng, đa dạng profile HLG cũng như 2 profile Log (S-Log2 và S-Log3) có thể dùng cho quay trong và quay ngoài qua HDMI.
Cả hai máy đều có mẫu Zebra và Timecode. A7 III còn có trợ lý Gamma Display cho profile S-Log2/3 và tùy chọn quay proxy.
Cuối cùng là, hai máy có thể quay clip 4K đơn cho thời lượng tối đa 30 phút và đầu thu microphone và đầu xuất headphone (kết nối jack 3.5mm).
3. Ổn định trong máy
X-T3 sở hữu nhiều tính năng vượt trội nhưng ổn định hình ảnh không nằm trong số đó. Mặc dù đã được xuất hiện trên chiếc X-H1 nhưng dường như Fuji không có ý định mở rộng công nghệ này lên các máy ảnh ngoài chiếc flagship. Do đó lựa chọn duy nhất của người dùng là tìm đến các ống kính có OIS hoặc gimbal của hãng thứ ba khi quay phim.
Mặc khác, Sony trang bị ổn OIS cho hầu hết các máy ảnh của hãng kể từ khi hãng giới thiệu tính năng này trên A7 Mark II. Lợi thế lớn nhất trong trường hợp này là A7 III cho ổn định với bất kỳ ống kính nào, kể cả các ống lấy nét thủ công cũ mà người dùng có thể sắm được. Cảm biến có thể cân bằng trên 5 trục tối đa 5.0EV (CIPA). Với ống kính được trang bị OSS (ổn định quang học SteadyShot), 3 trục được dùng trên cảm ứng và 2 trục trên ống kính. Với ống kính không có tiếp điểm điện tử, 3 trục vẫn dùng được nhưng người dùng phải chọn độ dài tiêu cự đúng trong menu.
4. Hệ thống lấy nét tự động
Cả hai máy đều có hệ thống lấy nét tự động lai với điểm nhận diện pha.
X-T3 trang bị vòng lặp gần đây nhất do Fuji thiết kế, gồm 117 điểm (lưới 139) có thể chia nhỏ thành 425 điểm (lưới 2517) với các thiết lập nhất định. 425 điểm nay bao phủ đến 99% bề mặt cảm biến, ngược lại với lưới 139, độ bao phủ nhỏ hơn một chút (91% ngang và 94.5% dọc).
A7 III có 639 điểm nhận diện pha bao phủ 93% cảm ứng, cũng như 425 vùng nhận diện tương phản.
Cả hai máy đều có mức nhạy sáng tối thiểu -3EV nhưng Fujifilm không nói rõ đây là số liệu thu được ở khẩu nào. Hai máy cũng có nhận diện mắt và khuôn mặt, Fujifilm còn cho biết cả hai làm việc hiệu quả hơn gấp 2 lần so với các mẫu máy trước. Đây là tin tốt bởi vốn hệ thống của Fuji không thể bắt kịp công nghệ Eye AF “hàng đầu” trên dòng A7.
Ngoài ra còn có nhiều chế độ vùng khác, cả hai máy đều có thể kiểm soát phản xạ lấy nét tự động liên tục. A7 III cho một thiết lập với 5 mức khác nhau, trong khi X-T3 có 5 thiết lập sẵn được thiết kế cho các loại hành động khác nhau, cũng như tùy chọn thứ 6 có thể tùy chỉnh thủ công bằng 3 thiết lập khác (tracking sensitivity, speed tracking sensitivity, zone area switching).
5. Màn trập điện tử
X-T3 và A7 III cùng có tùy chọn màn trập điện tử cho phép người dùng chụp hoàn toàn trong yên lặng. A7 III không có các lựa chọn phụ nào, nhưng X-T3 thì khác.
Không chỉ có tốc độ tối đa 1/32000s, X-T3 còn có thể chụp lên đến 20fps hay 30fps với chế độ Sports Finder. Điểm này giúp X-T3 phá vỡ thế độc tôn của chiếc flagship Sony A9: chụp ở chế độ liên tiếp cao với Live View và không blackout. Ngắn gọn là, khi bạn bắt đầu chụp liên tục, Live View không bị gián đoạn nên bạn sẽ không gặp bất cứ hiệu ứng lag nào. Hơn thế, vì không dùng đến màn trập cơ và máy có đủ năng lượng để duy trì Live View trong khi chụp.
Tuy nhiên, có một cảnh báo nhỏ: Sports Finder làm việc bằng cách crop cảm biến khoảng 1.29x, do đó người dùng sẽ phải làm việc với độ phân giải mới là 16MP thay vì 26MP. Thú vị là kính ngắm và màn hình LCD vẫn giữ nguyên trường nhìn gốc của cảm biến, chỉ hiển thị vùng bị crop bằng các đường kẻ như minh họa dưới đây.
Thêm vào đó, màn trập điện tử trên X-T3 cho phép người dùng sử dụng một chức năng khác là Pre-Shoot – máy ảnh sẽ tải ảnh vào bộ nhớ đệm khi nhấn nút màn trập xuống một nửa. Khi người dùng nhấn nút màn trập xuống hoàn toàn để chụp ảnh thì máy ảnh sẽ lưu các ảnh đã tải trước gần nhất để tăng cơ hội bắt kịp khoảnh khắc hoàn hảo.
Với màn trập cơ, X-T3 có thể chụp 11fps, hơi nhanh hơn so với khả năng chụp liên tiếp tối đa của A7 III là 10 fps (có hoặc không có màn trập).
6. Time-lapse và tính năng khác
X-T3 được trang bị một bộ tính năng bổ sung hấp dẫn: có nhiều hỗ trợ lấy nét thủ công hơn gồm tính năng Digital Microprism mới, chế độ Night Vision chuyển màn hình thành đỏ và đen, cũng như các tính năng tiêu biểu có thể tìm thấy trên nhiều máy ảnh như bracketing, double exposure và interval time shooting (time-lapse).
Ngoài bracketing và hỗ trợ MF (magnification, peaking), A7 III không có các tính năng phụ khác. Người dùng Sony từng có thể tải xuống nhiều ứng dụng (một số có tính phí) từ cửa hàng PlayMemories của Sony để bổ sung nhiều tính năng cần thiết, nhưng thế hệ máy A7 mới không còn hỗ trợ điều này nữa. Do đó, lựa chọn duy nhất của người dùng để quay time-lapse, ví dụ, là mua USB hoặc điều khiển chụp ngắt quãng không dây.
7. Thiết kế và điều khiển mở rộng
X-T3 sở hữu thiết kế hoài cổ truyền thống tương tự những người tiền nhiệm của nó. Cả hai máy đều có thân máy cứng cáp nhưng A7 III có phần grip tốt hơn. Kích thước cũng có nhiều nét tương đồng, máy ảnh Fuji có vẻ lớn hơn một chút nhưng lại nhẹ hơn. Cả hai máy đều kháng thời tiết, tuy nhiên X-T3 còn có chống đóng băng ở nhiệt độ đến -10C.
X-T3: 132.5mm x 92.8mm x 58.8mm, 539g A7 III: 126.9 x 95.6 x 73.7mm, 650g
Tuy cả A7 III và X-T3 đều được trang bị bộ điều khiển mở rộng, X-T3 nổi trội hơn nhờ vào các đĩa chọn ấn tượng. Bên cạnh đĩa cân bằng phơi sáng (trên A7 III cũng có), còn có các đĩa ISO, đĩa tốc độ màn trập, đĩa đo sáng phụ và đĩa xử lý. Cả hai máy có joystick AF trên thân sau.
A7 III được trang bị nhiều nút chức năng tùy chỉnh vật lý hơn (11 vs 9), tuy nhiên X-T3 cũng không kém cạnh khi sở hữu 4 chức năng cảm biến có thể thực thi trên màn hình.
Về màn hình, X-T3 có một màn hình LCD ở thân sau điều hướng được 3 hướng: lên – xuống cơ bản và lật sang bên một góc xấp xỉ 65, hữu dụng khi cần chụp định dạng đứng. A7 III có màn hình LCD lật cơ bản.
Cả hai màn hình có cùng kích cỡ (3 inch) và độ phân giải tương đương nhau (1,040k điểm ảnh trên X-T3, 921k điểm ảnh trên A7 III), đều có tính năng cảm ứng nhưng X-T3 có nhiều lựa chọn hơn. Bên cạnh đó bằng việc có thể di chuyển điểm lấy nét, người dùng có thể chụp ảnh, thay đổi các thiết lập trong menu Q và bật 4 chức năng khác nhau bằng cách trượt nhẹ trái, phải, lên, xuống. Trên A7 III thì cử chỉ chạm chính người dùng có thể thực hiện là di chuyển điểm lấy nét.
Về kính ngắm, trên X-T3 có độ phân giải cao hơn (3.6 vs 2.36 triệu điểm), tốc độ refresh nhanh hơn (100fps vs 60fps) nhưng độ phóng đại lại nhỏ hơn (0.75x vs 0.78x). Eyepoint bằng nhau 23mm.
Cuối cùng là cả hai máy ảnh đều có khe cắm thẻ nhớ SD. Trên máy Fujifilm thì cặp khe cắm này tương thích UHS-II, trong khi trên Sony chỉ là một trong hai.
8. Thời lượng pin
Sony đã có một sự cải thiện lớn trên các máy ảnh A7 thế hệ 3 nhờ viên pin NP-FZ100 lớn hơn. A7 III có thể chụp được 710 ảnh (hoặc 610 ảnh với EVF) sau một lần sạc – đây cũng là kết quả xuất sắc nhất so với bất kỳ máy ảnh mirrorless nào tính đến thời điểm này. Dĩ nhiên là chúng ta đang nói đến chuẩn CIPA, còn trong tình huống thực tế không có gì lạ khi máy ảnh ngàm E có thể chụp nhiều hơn 2000 ảnh mà không cạn sạch pin.
X-T3 theo đánh giá thì chụp được 390 ảnh, sử dụng pin NP-W126S. Hy vọng là khi hoạt động trong thực tế, khả năng của pin máy sẽ khả quan hơn, bởi máy đang sở hữu rất nhiều tính năng ngốn pin nhưng vẫn cần một nguồn năng lượng đủ để duy trì hoạt động mạnh mẽ hứa hẹn.
9. Giá bán
X-T3 bán ra với giá khởi điểm là $1500, rẻ hơn khá nhiều so với $2000 của A7 III.
10. Hệ sinh thái và ống kính của hãng thứ ba
Bởi hai máy sở hữu định dạng cảm biến và ngàm khác nhau nên chúng cũng nằm trong hệ ống kính khác nhau.
Cả hai hãng đều làm việc rất tích cực để mang đến cho người dùng của mình những lựa chọn ống kính cân bằng cho các mục đích sử dụng và khả năng tài chính khác nhau. Một vài ống kính của Sony sẽ đắt hơn nhiều so với các ống tương đương của Fuji, nên hệ ngàm E có thể yêu cầu đầu tư áp lực hơn nhất là nếu người dùng muốn sở hữu được ống tốt nhất mà hãng có.
Một điểm khác biệt là có thể thấy rõ các hãng thứ 3 đang đầu tư mạnh tay hơn cho hệ sinh thái ống kính ngàm E Sony, hơn bất kỳ hãng máy ảnh mirrorless nào khác. Người dùng A7 giờ đây có thể chọn lựa giữa Zeiss, Samyang, Sigma và Tamron riêng cho các ống kính lấy nét tự động. Sự lựa chọn sẽ tăng nếu gộp cả các tùy chọn lấy nét thủ công, không chỉ lại từ Zeiss và Samyang mà còn từ các hãng khác như Voigtlander.
Nhiều ống kính lấy nét thủ công của hãng thứ 3 cho ngàm X Fuji gồm các ống của Samyang nhưng có khá ít ống có lấy nét tự động.
Người dùng có thể sử dụng ống kính DSLR trên cả hai máy. Hệ của Sony là một giải pháp ổn định bởi có nhiều loại adapter tự động hóa hoàn toàn với kết quả rất ổn (dù là tùy vào ống kính). Máy ảnh Fuji cũng có thể làm việc qua nhiều ngàm.
Tạm kết
Nếu kích cỡ cảm biến là điểm lớn nhất khiến bạn băn khoăn thì rất khó để chọn giữa hai chiếc máy ảnh. Nhưng nếu bạn cũng quan tâm đến các thông số kỹ thuật khác thì mọi thứ sẽ dễ dàng hơn một chút.
Các khả năng video của X-T3 quá xuất sắc so với những gì A7 III có trên giấy, và kể cả khi A7 III vẫn còn nhiều ưu điểm khác, X-T3 vẫn không ngừng khiến người ta ngạc nhiên trước nhiều khía cạnh như tốc độ lấy nét tự động liên tiếp nhanh hơn, giảm rolling shutter rõ rệt với chụp Live View không bị blackout (phải nhắc lại, đây là chiếc máy ảnh thứ hai làm được được điều này, chỉ sau người anh em A9 của A7 III), cùng với hệ thống lấy nét tự động mới đảm bảo cải thiện hiệu suất thực thi vốn đã rất tuyệt vời trên các máy Fujifilm tiền nhiệm khác.
Đương nhiên A7 III vẫn là “thứ dữ” có thể đánh bại các máy ảnh khác bằng nhiều cách. Cảm biến là một trong những điểm xuất sắc nhất mà Sony từng sản xuất còn hệ thống lấy nét tự động nằm trong số đáng tin cậy nhất về tốc độ và độ chính xác, chưa kể đến khả năng nhận diện mắt vượt trội hàng đầu. Chất lượng video cũng là một điểm khiến nhiều người dùng chạy theo Sony. Máy còn có nhiều tính năng quan trọng khác mà X-T3 không có như ổn định 5 trục trong máy.
Theo Mirrorless Comparison
Canon đã ra máy ảnh không gương lật, nhưng tôi vẫn tin dùng Sony Alpha
Mặc dù khắc phục được một vài điểm yếu của các dòng sản phẩm DSLR, nhưng EOS R vẫn còn những điểm cần phải thay đổi nếu muốn cạnh tranh với Sony
Bài viết là ý kiến cá nhân của Usman Dawood, nhiếp ảnh gia của công ty ảnh kiến trúc Sonder Creative.
Canon EOS R (trái) và Sony A7 III (phải)
Tôi là một nhiếp ảnh gia kiến trúc, và trong bộ môn nhiếp ảnh này thì gần như mọi bức ảnh đều được chụp bằng cách gắn máy vào tripod. Có khá nhiều lí do để làm việc này, nhưng nổi bật là giúp người chụp có thể điều chỉnh hướng chụp một cách chuẩn xác nhất, cũng như giúp bức ảnh sắc nét hơn ở những tốc độ chụp chậm.
Tuy vậy không phải lúc nào tôi cũng có thể sử dụng được tripod. Ở những nơi hẹp, hay có nhiều người đi qua thì việc đặt một vật chiếm diện tích như tripod là điều không thể, mọi người có thể vấp chân và ngã. Chính vì vậy, thiết bị mà tôi sử dụng cũng phải có tính đa dụng cao, có thể tạo ra những bức ảnh đẹp nhất kể cả khi chụp cầm tay, nên tôi lựa chọn Sony A7R III và ống kính Laowa 12mm f2.8 Zero Distortion. Tôi lựa chọn ống kính này vì nó có tiêu cự rất rộng, cũng như khẩu độ lớn giúp thu nhận được nhiều ánh sáng nhất có thể.
Và đối với tôi, chiếc A7R III hay những sản phẩm đời mới khác của Sony là lựa chọn thông minh hơn so với các sản phẩm DSLR hay thậm chí chiếc Canon EOS R vừa được ra mắt.
Những bức ảnh của tác giả Usman Dawood
Ống ngắm điện tử (EVF)
Khác với DSLR với ống ngắm quang học, máy ảnh không gương lật sử dụng ống ngắm điện tử (EVF), là một màn hình nhỏ với đội phân giải cao
Laowa 12mm là một ống kính lấy nét bằng tay hoàn toàn, vậy nên hệ thống lấy nét tự động của máy trở nên vô dụng. Những nơi tôi chụp thường thiếu ánh sáng, nên việc sử dụng khẩu độ f2.8 cũng là một lợi thế. Điểm hay của chiếc Laowa 12mm đó là kể cả khi mở khẩu độ f2.8, trường ảnh vẫn rất lớn nên có thể chụp được toàn bộ kiến trúc của một tòa nhà.
Chụp ảnh thiếu sáng với một ống kính lấy nét tay quả thực là khó nhằn, nhưng có một tính năng ở các máy Sony nói riêng và máy ảnh không gương lật nói chung có thể giải quyết được vấn đề này, đó là ống ngắm điện tử EVF. EVF giúp tôi có thể chụp đúng tư thế để có điểm tựa vững chắc, mà vẫn có thể sử dụng các tính năng trợ giúp lấy nét tay như peaking (tạo ra những chấm đỏ ở điểm nét) hay zoom. Cả Canon và Nikon cũng đều vừa ra mắt máy ảnh không gương lật Full-frame đầu tay của mình, đáng tiếc là Sony đã có hệ thống của riêng mình từ rất lâu và tôi đã quá quen với chúng để có thể chuyển sang các hãng khác.
Chống rung bằng cảm biến
Canon EOS R không được trang bị công nghệ chống rung cảm biến mà Sony và Nikon đã trang bị cho máy ảnh của mình
Tính tới thời điểm hiện nay thì Sony là hãng duy nhất có máy ảnh Full-frame với khả năng chống rung cảm biến 5.5 bước, cao hơn so với hệ thống 5 bước của bộ đôi Z6 và Z7 đến từ Nikon. Còn Canon thì vẫn đi theo lối mòn, chiếc EOS R mới nhất của hãng không hề được trang bị tính năng này.
Chống rung cảm biến (IBIS) là một công cụ rất đắc lực cho những nhà nhiếp ảnh kiến trúc. Nhiều lúc do thiếu ánh sáng, tôi phải chụp ở tốc độ 1/15, nhưng cuối cùng bức ảnh vẫn không bị mờ do rung lắc. Chiếc Laowa 12mm tôi sử dụng hay bất cứ ống kính dạng lấy nét tay nào cũng không hề có chống rung trên ống kính, nên khi gắn chúng trên các thân máy không có IBIS sẽ rất khó chụp cầm tay, và nhất thiết phải sử dụng tripod.
Hệ thống ống kính
Một trong những điểm yếu của Sony trong quá khứ là hệ thống ống kính không đa dạng, nhưng tới nay thì tình hình đã được cải thiện hơn rất nhiều. Hiện nay dòng máy ảnh Sony Alpha E-mount đã có rất nhiều ống kính đúng ngàm (Native), người dùng cũng có thể gắn thêm ngàm chuyển để sử dụng các ống kính của ngàm A (DSLR của Sony), của Canon, Nikon và của Leica. Thậm chí người dùng còn có thể sử dụng những ống kính của các máy ảnh có cảm biến Medium format nếu muốn!
Các hãng thứ 3 như Sigma, Samyang và Tamron mới đây cũng thông báo sẽ ra mắt những ống kính dành cho máy ảnh Sony. Điển hình như Sigma, vừa công bố một lúc tới 9 ống kính dòng Art với khẩu độ f1.2 - f1.8 dành cho ngàm E-mount.
Hệ thống ống kính Sigma Art dành cho Sony
Đối với tôi thì lợi thế lớn nhất của Sony đó là tôi có thể sử dụng những ống kính tilt-shift của Canon, mà vẫn có hệ thống chống rung IBIS, một ưu điểm mà không bất cứ chiếc máy ảnh nào của Canon có được.
Khả năng lấy nét
Sony A9 là sản phẩm đầu tiên mà hãng cho thấy được tiềm năng của khả năng lấy nét trên cảm biến trên các máy ảnh không gương lật. Khả năng chụp mà không bị đen màn hình (blackout) cùng tốc độ lấy nét tốc độ cao giúp khẳng định đây là một sản phẩm dành cho giới nhiếp ảnh chuyên nghiệp.
Hệ thống lấy nét của Sony A9 với độ phủ lớn
Hệ thống lấy nét bằng cảm biến ảnh không những có độ chính xác cao hơn DSLR truyền thống với một cảm biến lấy nét riêng, mà còn có nhiều tính năng 'hay ho' nữa. Ví dụ như khả năng lấy nét mắt (Eye AF), giúp cho người dùng chụp những bức ảnh chân dung chỉ trong tích tắc mà không cần di chuyển từng điểm lấy nét một. Ở thế hệ máy ảnh thứ 3, hệ thống lấy nét mắt của các máy ảnh Sony đã quá tốt, nên việc trở lại với hệ thống lấy nét truyền thống của DSLR như chuyển từ dùng smartphone xuống điện thoại 'cục gạch' vậy. Trong nhiếp ảnh kiến trúc, nhờ có hệ thống lấy nét nhiều điểm và có độ phủ lớn mà tôi có thể chọn đúng điểm nét mà mình cần, không cần phải 'phá khung hình' giống với các máy DSLR.
Những tính năng quay phim
Trong 2 hãng mới tham gia thị trường không gương lật, thì chỉ có Nikon mới phát triển thành công tính năng quay phim. Còn Canon có vẻ như vẫn 'để dành' những tính năng quay phim tốt nhất cho các sản phẩm Cine cao cấp. Chiếc EOS R mới được ra mắt có thể quay 4K 30p giống với Nikon Z6, Z7 và Sony A7 III, nhưng lại phải crop cảm biến tới 1.8 lần. Chính vì vậy, khi người dùng chuyển từ chụp ảnh sang quay phim, thì khung ảnh của họ sẽ bị zoom lên tới 1.8 lần, nên ta phải đứng xa ra hoặc sử dụng ống kính khác.
EOS R phải crop cảm biến để có thể quay độ phân giải 4K
Sony thì khác, họ cung cấp cho người dùng lựa chọn để quay phim 4K bằng toàn bộ cảm biến hoặc ở chế độ crop Super 35 (1.5 lần), giúp người dùng dễ dàng chọn khung hình, chuyển được nhanh giữa chế độ chụp ảnh và quay phim.
Sony lắng nghe ý kiến của người dùng
Khi so sánh những sản phẩm Full-frame trên thị trường, thì có vẻ như chỉ có Sony là hãng lắng nghe những yêu cầu của người dùng. Hãng trong thời gian vừa qua đã tạo ra những chiếc máy ảnh không gương lật tốt nhất Thế giới, đơn giản vì họ nghe người dùng, và thêm những tính năng mà họ cần nhất.
Ví dụ điển hình là khả năng nhận 2 thẻ nhớ SD cùng một lúc. Đây là một yếu điểm rõ ràng của những dòng máy Sony trước đây, và tới thế hệ 3 của dòng máy Alpha mới nhất họ đã thêm tính năng này, giúp người dùng có thể mở rộng bộ nhớ lên gấp 2, hoặc lưu trữ back-up ngay trong lúc chụp. Nikon, và cả Canon đã có cơ hội để không đi vào vết xe đổ của Sony, nhưng lại tiếp tục mắc sai lầm và chỉ trang bị cho các máy ảnh không gương lật mới nhất của họ chỉ 1 khe cắm thẻ nhứo duy nhất.
Tới chiếc X-H1, một sản phẩm có cảm biến APS-C cũng có 2 khe cắm thẻ SD
Lời kết
Lựa chọn đúng công cụ cho công việc của từng người là một công việc rất quan trọng, và với bản thân tôi thì Canon vẫn là một lựa chọn an toàn. Song, trong những năm gần đây tôi đã sử dụng và rất hài lòng với các sản phẩm không gương lật đến từ Sony vì những tính năng mà Canon không có được.
Sony trong thời gian qua đã rất có cố gắng trong việc phát triển máy ảnh của họ, và mở một ngã rẽ mới cho thị trường máy ảnh: các sản phẩm không gương lật Full-frame. Chính vì vậy mà số nhiếp ảnh gia chuyển sang sử dụng máy ảnh của họ ngày càng nhiều, vì đơn giản những sản phẩm của họ thực sự rất tuyệt vời và có nhiều triển vọng phát triển trong tương lai.
Còn Canon và Nikon thì vẫn 'đi theo lối mòn', thể hiện ở những chiếc máy ảnh không gương lật mới được ra mắt của họ. Những sản phẩm mới của họ 'chỉ đủ tốt' để giữ chân người dùng ở lại với hệ thống của họ, nhưng không có bất cứ tính năng gì mới để có thể cạnh tranh với một thị trường không gương lật đang phát triển một cách nhanh chóng.
Tới 67.92% người dùng trên diễn đàn Petapixel lựa chọn Sony A7 III thay vì Nikon Z6 và Canon EOS R
Khi một hãng thuyết phục được các hãng thứ 3 làm ống kính cho họ chỉ sau một vài năm bắt đầu ở mảng nhiếp ảnh, thì tức là hãng đó đã thành công trong việc sản xuất thân máy. Máy ảnh không gương lật được sản xuất bởi Sony hiện đã có rất nhiều tính năng mới, và sẽ còn đưa họ lên những vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng các hãng máy ảnh trong tương lai. Với rất nhiều nhiều nhiếp ảnh gia thì Sony là lựa chọn hàng đầu khi chọn mua máy ảnh
Theo genk
5 điểm "khủng nhất" của Fujifilm X-T3 Thời gian vừa qua, các hãng máy ảnh chạy đua liên tục với những sản phẩm mới đình đám, không những cách họ ra mắt mà còn những công nghệ vượt trội được áp dụng. Trước thềm Photokina 2018, Fujifilm, một trong những hãng sản xuất máy ảnh không gương lật bán chạy nhất hiện nay cũng không thể đứng ngoài cuộc. Fujifilm...