Xung đột và những bộn bề lo toan
Các cuộc xung đột ở Ukraine và Gaza, cùng với khả năng cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump trở lại Nhà Trắng, đang thử thách liên minh phương Tây.
Bên cạnh đó là những lo ngại về sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy đang lan rộng khắp châu Âu và những thách thức bất ổn trên chính trường trước sự trỗi dậy của các đảng cực hữu trong cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu (EP).
Trải qua kỷ nguyên hồi sinh và đổi mới
Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tới Paris hôm 5/6 trong chuyến đi đánh dấu kỷ niệm 80 năm D-Day (ngày quân Đồng minh đổ bộ lên bãi biển Normandy của Pháp trong Thế chiến II) và thực hiện chuyến thăm cấp nhà nước theo lời mời của người đồng cấp Pháp Emmanuel Macron. Sau Pháp, người đứng đầu Nhà Trắng sẽ tới Italy, nhưng dự kiến sẽ bỏ qua Hội nghị Thượng đỉnh hòa bình về Ukraine được tổ chức tại Thụy Sĩ. Điều này cho thấy đương kim Tổng thống Mỹ đang tăng cường hoạt động ngoại giao trong bối cảnh cuộc cạnh tranh trong năm bầu cử trước đối thủ Donald Trump, người nếu giành chiến thắng trong cuộc bầu cử vào tháng 11 năm nay có thể có tác động lớn đối với liên minh xuyên Đại Tây Dương.
Những tấm áp phích cổ động cho cuộc bầu cử EP trên đường phố ở Frankfurt, Đức. Ảnh: AP.
Ông Charles A. Kupchan, Giáo sư về các vấn đề quốc tế tại Đại học Georgetown, nhận định: “Liên minh phương Tây đang trải qua một kỷ nguyên hồi sinh và đổi mới, và những hội nghị thượng đỉnh khác nhau này sẽ thể hiện được điều đó. Nhưng chúng ta đang kỳ vọng vào đúng thời điểm mà mọi người đều lo lắng về cuộc bầu cử Mỹ sắp tới”. Vị chuyên gia này, người từng làm việc về các vấn đề châu Âu trong chính quyền Tổng thống Barack Obama, đồng thời lưu ý: “Lần đầu tiên kể từ thế chiến II, mối đe dọa bên trong đối với phương Tây nghiêm trọng hơn mối đe dọa từ bên ngoài”. Và trong khi ông Donald Trump đang vướng vào những rắc rối pháp lý, nhiều người ở châu Âu không thể thay đổi được cảm giác rằng, vị tỉ phủ này vẫn đang trên đường trở lại Nhà Trắng. Ông Kim Darroch, người từng là Đại sứ Anh tại Mỹ trong chính quyền ông Donald Trump, cho biết: “Người châu Âu đã nghĩ rằng, loạt vụ án hình sự này đang giúp ích cho ông Trump hơn là cản trở ông ấy. Đây sẽ là một phần của mọi cuộc thảo luận giữa các phái đoàn tại tất cả các hội nghị thượng đỉnh này”.
Theo nhận định của một số chuyên gia, đối với tất cả những nỗ lực ngoại giao của mình, việc Tổng thống Joe Biden nhấn mạnh vào các liên minh đã gieo mầm mống cho những vấn đề trong tương lai. Nó đã khiến các đồng minh phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ và đó là lý do tại sao “bóng ma” về sự trở lại của ông Donald Trump phủ bóng các cuộc họp ở Pháp, Thụy Sĩ, Italy và Mỹ. Giám đốc nghiên cứu của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu Jeremy Shapiro nêu quan điểm: “Trọng tâm chiến lược của Tổng thống Joe Biden là các liên minh và đồng minh; họ vô cùng tự hào về điều đó. Ngược lại, ông Donald Trump về cơ bản nghĩ rằng các đồng minh là người thân đến nhà bạn, mượn tiền và sử dụng đồ dùng của bạn. Nhưng chính quyền Tổng thống Joe Biden đã khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn bởi vì đã tạo ra sự phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ hiện tại”. Bên cạnh đó, việc ông Biden kiên quyết ủng hộ Israel trong cuộc chiến ở Gaza đã gây ra sự chia rẽ giữa Mỹ và một số nước châu Âu. Ireland, Norway và Tây Ban Nha gần đây đã công nhận nhà nước Palestine. Nhưng Anh, Pháp và Đức cho đến nay vẫn tránh được sự chia rẽ với Mỹ, bất chấp tình hình chính trị nội bộ đầy khó khăn ở các nước này và sự khó chịu ngày càng tăng đối với cách tiến hành cuộc chiến của Israel.
Nhưng sự lo lắng của phương Tây không chỉ giới hạn ở những lo ngại về Mỹ. Những lo ngại về sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy đang lan rộng khắp châu Âu – từ Italy, nơi Thủ tướng cánh hữu Giorgia Meloni, sẽ chủ trì cuộc họp G7, đến Pháp và Đức, nơi các nhà lãnh đạo đang phải đối mặt với sự bất mãn ngày càng tăng và những thách thức bất ổn trên chính trường trước sự trỗi dậy của các đảng cực hữu trong cuộc bầu cử EP.
Video đang HOT
Cuộc bầu cử định hình tương lai
Tại cuộc bầu cử EP, kéo dài từ ngày 6-9/6, cử tri sẽ bỏ phiếu cho các đảng quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) mà phần lớn trong đó có liên kết với một nhóm chính trị châu Âu, chẳng hạn đảng Nhân dân châu Âu (EPP), đảng Bảo thủ và Cải cách châu Âu (ECR), đảng Liên minh Tiến bộ xã hội và dân chủ (S&D), đảng Đổi mới châu Âu (RE)… Sau khi được bầu, các đại biểu sẽ chọn trở thành thành viên của các nhóm chính trị xuyên quốc gia này.
Theo kết quả các cuộc thăm dò trước thềm bỏ phiếu, cuộc bầu cử lần này được đánh dấu bằng sự suy yếu của 3 nhóm chính trị chính tạo thành phe “siêu đa số” trong EP hiện nay, gồm EPP, S&D và RE. Hiện giữ 178 ghế EP, nhóm EPP thuộc cánh hữu bảo thủ của Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Ursula von der Leyen hy vọng sẽ giữ được sự ổn định tương đối. Trong khi đó, S&D, liên minh trung tả do Ủy viên châu Âu về Việc làm và Quyền xã hội, cựu Bộ trưởng Lao động Luxembourg Nicolas Schmit dẫn dắt, hy vọng có thể duy trì được 141 ghế hiện tại mặc dù tổng số đại biểu được bầu trong EP lần này tăng thêm 15 so với kỳ trước.
Về phần mình, giữ vị trí ở “trung tâm bàn cờ”, nhóm RE theo đường lối trung dung thân châu Âu hiện giữ 101 ghế và do phe đa số ủng hộ Tổng thống Pháp Emmanuel Macron thống trị. Theo các cuộc thăm dò, trong khi EPP và S&D có thể mất lần lượt là 5 và 10 ghế thì RE có thể bị rớt hạng từ vị trí thứ ba xuống thứ tư, thậm chí thứ năm trong EP mới. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nếu nhìn lại lịch sử bầu cử EP, sự dịch chuyển cán cân sang cánh hữu được thấy qua các cuộc thăm dò dư luận lần này sẽ không làm hỏng “siêu liên minh” EPP, S&D và RE vốn luôn giữ “thế cầm trịch” trong các thể chế châu Âu. Nhưng tiếng nói của “siêu đa số” này sẽ yếu hơn đáng kể trong cơ quan lập pháp mới.
Trái ngược với tình trạng đi xuống của phe “siêu đa số” là sự lớn mạnh của hai đại diện cánh hữu cấp tiến, gồm nhóm Bảo thủ và Cải cách (ECR) và Bản sắc và Dân chủ (ID). Theo kết quả thăm dò mới nhất, nhóm ECR theo chủ nghĩa chủ quyền và hoài nghi châu Âu, gồm các đảng Anh em Italy (Fratelli d’Italia), Luật pháp và Công lý (PiS) ở Ba Lan và Vox ở Tây Ban Nha…, sẽ giành được 86 ghế, nhiều hơn 19 ghế so với hiện nay. Tương tự, nhóm ID gồm các lực lượng cực hữu như Tập hợp quốc gia (RN) ở Pháp, Sự lựa chọn vì nước Đức (AfD) ở Đức, Liên đoàn (La Liga) ở Italy, đảng Tự do (VVD) ở Hà Lan…, cũng có những bước tiến ngoạn mục khi được dự kiến sẽ có thêm 25 ghế, nâng tổng số ghế có được sau bầu cử lên 84. Trong bối cảnh kinh tế – xã hội ngày càng khó khăn, các đảng cầm quyền tại nhiều nước châu Âu không đưa ra được các quyết sách thuận lòng dân, phe cực hữu và dân túy đã tận dụng cơ hội để nhanh chóng vươn lên trở thành một lực lượng chính trị có tiếng nói trọng lượng hơn.
Có thể nói tâm trạng bất an của đông đảo cử tri sẽ chi phối các lá phiếu và mang đến những thay đổi đáng kể trong đời sống chính trị ở châu Âu sau cuộc bầu cử EP năm nay. Trong điều kiện như vậy, cơ quan lập pháp mới sẽ đóng vai trò quan trọng đối với rất nhiều dự án của EU.
Châu Âu đối mặt với áp lực mới khi xung đột ở Ukraine bước sang năm thứ 3
Trong bối cảnh cuộc xung đột không có hồi kết và bị chi phối bởi cuộc khủng hoảng ở Trung Đông - cũng như những lo ngại nội bộ về các cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt do lạm phát gây ra trên khắp thế giới - việc chi những khoản tiền lớn cho Ukraine sẽ là áp lực lớn về mặt chính trị với các chính phủ ở châu Âu.
Thủ tướng Estonia Kaja Kallas (trái), Thủ tướng Bulgaria Nikolai Denkov, Thủ tướng Phần Lan Petteri Orpo và Thủ tướng Luxembourg Luc Frieden tới dự cuộc họp của Hội đồng châu Âu tại Brussels, Bỉ, ngày 1/2/2024. Ảnh: AFP/TTXVN
Khi xung đột Nga - Ukraine bước sang năm thứ 3, châu Âu đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng liên quan đến cuộc giao tranh đang diễn ra ở biên giới của mình, vốn khó đoán định trong 12 tháng tới, theo kênh CNN ngày 23/2.
Có thể cho rằng quan trọng nhất trong số những thách thức đó là EU có thể duy trì được sự hỗ trợ tài chính, vốn đang ngày càng suy giảm, cho Ukraine trong bao lâu? Vấn đề trên không phải là mới, nhưng ngày càng đè nặng lên tâm trí của giới quan chức EU và phản ánh một số sự thật nghiệt ngã hiện nay.
Cuộc chiến ở Ukraine đã rơi vào bế tắc một thời gian, trong khi tuần trước Ukraine buộc phải rút khỏi thành trì Avdiivka sau nhiều tháng giao tranh ác liệt, đánh dấu thất bại tồi tệ nhất kể từ khi Bakhmut thất thủ hồi tháng 5/2023.
Số tiền viện trợ rất cần thiết từ Washington lại đang bị mắc kẹt tại Quốc hội Mỹ, dù đã được Thượng viện thông qua nhưng vẫn cần Hạ viện phê duyệt. Sự thống nhất giữa EU và NATO đang bắt đầu rạn nứt, với gần như mọi quyết định lớn đều bị trì hoãn và bị đe dọa phủ quyết.
Không có tiếng nói công khai nào của phương Tây muốn từ bỏ Kiev, nhưng không thể phủ nhận rằng sự mệt mỏi đang ập đến khi nguồn lực ngày càng cạn kiệt. Cơ quan Theo dõi Hỗ trợ Ukraine của Viện Kiel cho biết, kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột, EU và các đồng minh khu vực đã chi hơn 100 tỷ USD tài trợ quân sự cho Ukraine.
Đầu tháng này, các nhà lãnh đạo EU đã đồng ý gói hỗ trợ trị giá 54 tỷ USD cho Ukraine từ nay đến năm 2027. Anh, được cho là nước đóng vai trò an ninh lớn trong khu vực, cũng đã cam kết cấp hơn 15 tỷ USD cho Ukraine kể từ năm 2022. Về tổng thể, theo Viện Kiel, Mỹ đã chi 66 tỷ USD và 60 tỷ USD tiếp theo đang được chuẩn bị.
Khi sự ủng hộ của phương Tây dành cho Ukraine từ năm 2022 khiến nhiều người trong giới ngoại giao ngạc nhiên, xung đột càng kéo dài thì sự mệt mỏi càng tăng lên.
Trong bối cảnh cuộc xung đột không có hồi kết và bị chi phối bởi cuộc khủng hoảng ở Trung Đông - cũng như những lo ngại nội bộ về các cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt do lạm phát gây ra trên khắp thế giới - việc chi những khoản tiền lớn cho Ukraine có thể là áp lực lớn về mặt chính trị với các chính phủ ở châu Âu.
Áp lực chính trị liên quan đến ngân sách sẽ trở nên rõ ràng hơn khi cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu diễn ra vào tháng 6 tới, cũng như các cuộc thăm dò quốc gia ở nhiều nước châu Âu, trong đó có Anh, một đối tác quan trọng của Ukraine.
Các quan chức châu Âu chỉ cần nhìn vào khó khăn mà Tổng thống Mỹ Joe Biden đang gặp phải với gói viện trợ bổ sung cho Ukraine để thấy tác động thực tế của việc tài trợ cho một cuộc xung đột tốn kém ở nước ngoài khi gặp vấn đề chính trị trong nước.
Thêm vào những thách thức đó là viễn cảnh cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm tới.
Ông Trump vẫn chưa tuyên bố rõ ràng chính sách Ukraine của mình sẽ như thế nào, ngoại trừ tuyên bố rằng ông có thể kết thúc xung đột trong vòng 24 giờ. Ngoài ra, những quan điểm chống NATO, thái độ phớt lờ EU của ông Trump đều được nhiều người biết đến.
Do đó, những tháng tới sẽ trở nên quan trọng đối với các đồng minh châu Âu của Ukraine. Trong thời gian chờ đợi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra, câu hỏi điều gì sẽ xảy ra với an ninh châu Âu nếu không có Mỹ chắc chắn sẽ được đặt ra. Mặc dù sự thật là an ninh Ukraine gắn liền trực tiếp với an ninh châu Âu rộng lớn hơn, nhưng câu hỏi trước mắt là làm thế nào để tiếp tục hỗ trợ Kiev với mục tiêu dài hạn của châu Âu là độc lập hơn về an ninh với vẫn chưa có lời giải đáp.
Hầu hết các quan chức phương Tây cho rằng điều đó dù rất khó khăn nhưng có thể. Một quan chức NATO nói với CNN: "EU rất giỏi trong việc gây quỹ và có những công cụ mà họ chưa sử dụng".
Quan chức này nói rằng trong 12 tháng tới, Brussels nên bắt đầu xem xét việc sử dụng số tiền liên quan đến tài sản bị đóng băng của Nga để giúp tài trợ cho Ukraine. Nhưng vấn đề gai góc hơn là liệu châu Âu có thể cung cấp cho Ukraine những vũ khí cần thiết để giành chiến thắng trong cuộc chiến mà không cần sự hỗ trợ của Mỹ hay không.
Câu trả lời có lẽ là không: Đơn giản là châu Âu hiện không có đủ năng lực sản xuất để độc lập hỗ trợ cho Ukraine trong 12 tháng tới. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao phương Tây lạc quan rằng việc trang bị vũ khí cho Ukraine hoàn toàn phù hợp với nỗ lực rất cần thiết của châu Âu nhằm giảm sự phụ thuộc vào Mỹ.
Các quan chức chỉ ra một thỏa thuận gần đây do NATO làm trung gian, trong đó các nước châu Âu đã cam kết mua 1.000 tên lửa từ các công ty Mỹ sẽ được chế tạo tại một nhà máy mới của Đức. Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng châu Âu cần mua thêm vũ khí và có chính sách an ninh không quá phụ thuộc vào Mỹ. Để đạt được điều đó mà không gây tổn hại cho nước Mỹ, việc ký hợp đồng béo bở với các công ty Mỹ là một cách để đảm bảo "đôi bên cùng thắng".
Những lo lắng và phản ứng của Anh về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2024 Quân đội Anh luôn muốn trở thành đối tác được Mỹ lựa chọn, quốc gia mà Anh hướng tới trong các vấn đề hợp tác quốc phòng. Tổng thống Mỹ Joe Biden (phải) ngày 10/7/2023 đã có chuyến thăm ngắn tới Anh và gặp Thủ tướng Rishi Sunak. Trong cuộc gặp, hai bên thảo luận về Tuyên bố Đại Tây Dương, Hội nghị...