Xuất khẩu thủy sản giảm
Dịch Covid -19 đã tác động mạnh đến nhiều lĩnh vực kinh tế, trong đó có ngành thủy sản xuất khẩu. Số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, lũy kế 2 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã giảm 10.7% so với cùng kỳ năm 2019, khi chỉ đạt mức 988,8 triệu USD.
Tính chung 2 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu thủy sản sang 2 thị trường lớn nhất là Nhật Bản và Hoa Kỳ tăng, trong khi xuất khẩu sang các thị trường khác như Trung Quốc, EU thì giảm mạnh. Đây là những thị trường vốn nhập khẩu sản lượng lớn thủy sản Việt Nam hàng năm nhưng thời gian qua, một phần vì tấm thẻ vàng IUU, một phần vì dịch Covid-19 đã khiến những thị trường này giảm mạnh. Theo đó, 2 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu thủy sản sang EU giảm 11% so với cùng kỳ năm 2019, đạt 109,2 triệu USD; xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 61,4 triệu USD, giảm tới 48,8%. Trong khi xuất khẩu sang các thị trường như Thái Lan, Anh cũng giảm mạnh khi chỉ đạt kim ngạch lần lượt là 39,6 triệu USD (giảm 10,4%); 34,4 triệu USD (giảm 9,3%).
Khảo sát các DN ngành thủy sản trước tác động của dịch bệnh, Hiệp hội Chế biến và XK thủy sản (Vasep) cho hay, trong vòng 3 tháng dịch hoành hành, hầu hết các DN ngành thủy sản đang “chìm” trong tình cảnh: hàng tồn kho lớn, nhiều lô hàng xuất – nhập bị trì hoãn, khách hàng chậm thanh toán ảnh hưởng tới vòng quay vốn lưu động và lịch thanh toán nợ vay đến hạn trong tháng 3 – 4 – 5/2020, doanh thu xuất khẩu giảm. Tại nhiều thị trường, DN xuất khẩu còn gặp phải tình trạng các đối tác từ chối thực hiện đơn hàng mới, và giảm lượng hàng nhập khẩu vì lo ngại dịch bệnh.
Không chỉ khó khăn về thị trường, các DN còn đang phải gánh nhiều chi phí phát sinh như: Phí hồ sơ xuất khẩu, phí giao dịch, phí điện, phí chiết khấu, phí quản lý tài khoản, phí nhắn tin phí gửi hồ sơ… Tất cả những khó khăn đó đang tạo áp lực lớn lên vai các DN ngành thủy sản.
Trước tình hình đó, Vasep cho biết, nhiều DN đã nêu lên ý kiến, đề xuất về việc các Ngân hàng nới lỏng các điều kiện cho vay như: Chưa áp dụng tài sản thế chấp đảm bảo theo tỷ lệ, giảm quy trình thủ tục, điều kiện về thế chấp, tín chấp, yêu cầu về ngoại tệ tương ứng số vốn cấp; dựa vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN để cấp thêm hạn mức tín chấp để DN dễ tiếp cận nguồn vốn; Cho vay dự trữ hàng hóa (xét cho vay tín chấp) để khi hết dịch sẽ có hàng bán kịp thời; tăng kỳ hạn vay vốn lưu động từ 4 tháng lên 6 tháng…
Video đang HOT
Minh Phương (Daidoanket.vn)
Giữ 'đường bơi' cho cá tra Việt
Ngành hàng cá tra Việt Nam đã gặt hái những thành công đáng tự hào, khẳng định vị thế số 1 thế giới trong nhiều năm, nhưng cũng trải qua không ít thăng trầm. Sau thắng lợi kép của năm 2018, cá tra lại trở về "bơi" trong trạng thái loay hoay. Bên cạnh chấp nhận quy luật của thị trường, cần xem xét một cách toàn diện, khắc phục hạn chế, phát huy lợi thế để phát triển bền vững cho ngành hàng này.
Giữ ổn định
Theo Quyết định số 50/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục đối tượng thủy sản nuôi chủ lực của Việt Nam (Quyết định có hiệu lực từ ngày 30/1/2019), cá tra là một trong ba đối tượng thuộc danh mục này (cùng với tôm sú và tôm thẻ chân trắng) phải hội đủ các tiêu chí như: Thuộc vào danh mục loài thủy sản được phép kinh doanh tại Việt Nam; tạo nhiều việc làm và thu nhập cao cho người lao động; phát huy hiệu quả tài nguyên, điều kiện tự nhiên và có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, có năng suất và hiệu quả sản xuất cao; có khả năng thu hút đầu tư để tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh, giá trị xuất khẩu tối thiểu đạt 100 triệu USD/năm...
Sản lượng nuôi tập trung hầu hết ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cá tra là mặt hàng Việt Nam xuất khẩu "thống trị" thế giới nhiều năm qua. Đặc biệt, năm 2018, năm đỉnh cao thành công của ngành hàng này với những kỷ lục về sản lượng nuôi (đạt hơn 1,4 triệu tấn, tăng trên 20% so với năm 2017) và kim ngạch xuất khẩu (đạt 2,26 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước). Về giá cá tra nguyên liệu, từ cuối năm 2017 đến cả năm 2018 và sang đầu năm 2019, giá luôn ở trên mức 25.000 đồng/kg, đỉnh điểm có lúc đạt 36.000 đồng/kg, lãi trên dưới 10.000 đồng/kg. Người nuôi phấn khởi, doanh nghiệp lợi nhuận cao, ngành hàng cá tra có một năm thắng lợi kép khi trúng mùa được giá. Hiệu ứng sau đó là những chương trình, dự án lạc quan tiếp theo như mở rộng diện tích ao nuôi, tăng cường quy mô nhà máy, tìm thị trường... được thực hiện.
Chính lợi nhuận kinh tế trên đã tạo nên tình trạng ồ ạt đào ao thả cá. Điển hình ở Long An, dù không nằm trong các địa phương nuôi nhiều cá tra nhưng sau sự hấp dẫn trên, diện tích nuôi cá tra của tỉnh này lên đến hàng ngàn héc ta. Người dân chạy theo phong trào, bất chấp khuyến cáo. Tuy nhiên, kể từ tháng 3/2019, việc dư thừa nguồn cung, xuất khẩu chậm lại đã khiến giá cá tra nguyên liệu rớt xuống dưới mức 30.000 đồng/kg. Đến tháng 6/2019 giá sụt mạnh xuống mức dưới 20.000 đồng/kg và dao động 18-20.000 đồng/kg từ đó đến cuối năm. Người nuôi lỗ 5-7.000 đồng/kg. Cùng với giá cá nguyên liệu, giá cá tra giống cũng giảm mạnh, không ít người lại đành "treo ao"...
Làm gì để giữ vững vị thế số 1?
Với lợi thế về sản lượng nuôi nhiều nhất thế giới, xuất khẩu cá tra Việt Nam đã giữ vị thế "độc tôn", "một mình một chợ" nhiều năm trước đây, nhưng ngành hàng này cũng trải qua không ít thăng trầm, các rào cản thuế quan và phi thuế quan đặt ra không ít thách thức. Trong khi đó, những năm gần đây, các nước như Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh cũng đã nuôi cá tra với sản lượng hàng trăm ngàn tấn mỗi năm. Hay ở Trung Quốc là thị trường tiêu thụ số 1 của cá tra Việt Nam thì hiện nay họ cũng nuôi được cá này với sản lượng hàng chục ngàn tấn. Đó là những "đối thủ" cạnh tranh nhãn tiền của cá tra Việt.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong hai thị trường dẫn đầu của xuất khẩu cá tra Việt Nam, thị trường Trung Quốc đã hồi phục mạnh và vượt xa Mỹ. Trước đây, Việt Nam chỉ xuất khẩu cá tra nguyên con tới một số tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc, nhưng nay sản phẩm cá tra phi-lê có mặt tại những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải và Đại Liên.
Nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long
Còn thị trường Mỹ, rào cản thương mại và kỹ thuật, giá cá tra nguyên liệu trong nước giảm mạnh tác động trực tiếp tới giá xuất khẩu khiến cho giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường này giảm.
Với thị trường Trung Quốc, ông Võ Hùng Dũng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam cho rằng các nhà xuất khẩu Việt Nam đã quen với việc xuất khẩu chính ngạch là lý do cho việc tăng trưởng trở lại. Xét về nhu cầu và sức tiêu thụ thì thị trường Trung Quốc còn nhiều dư địa cho cá tra, vấn đề là chính sách thường hay thay đổi hoặc hành vi của các nhà nhập khẩu trong chiến lược cạnh tranh.
Ngoài hai thị trường lớn trên, ở các thị trường quy mô nhỏ hơn khó đoán định sự thay đổi thất thường. Bức tranh xuất khẩu cá tra năm 2020 phụ thuộc chủ yếu vào thị trường Trung Quốc và sự phục hồi của thị trường Mỹ cho thấy tính bấp bênh của các dự báo. Với thị phần trên 30% của Trung Quốc, có thể nói độ rủi ro là cực kỳ cao, các nhà sản xuất nên thận trọng. Nguồn cung cần được kiểm soát tốt cho đến khi các thông tin rõ ràng hơn từ thuế chống bán phá giá của Mỹ cũng như thông tin từ thị trường Trung Quốc. Theo ông Dũng, không làm chủ được thị trường thì phải kiểm soát trở lại chính mình. Tiếc rằng chẳng có số liệu đáng tin về nguồn cung, ai cũng kêu gọi giảm sản lượng, tăng tính minh bạch thông tin, nhưng chẳng ai chịu là người đi đầu để làm việc này.
Những người nuôi cá tra cho rằng để giải quyết tình trạng mất kiểm soát, cần phải "đánh" vào kinh tế. Doanh nghiệp phải cam kết chỉ mua cá những ao nuôi nằm trong vùng quy hoạch, không mua bên ngoài. Theo ông Dương Nghĩa Quốc - Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam, đa phần doanh nghiệp đều có liên kết xây dựng vùng nuôi với nông dân, sản xuất có chứng nhận đàng hoàng, nhưng khi có nhu cầu cao từ khách hàng thì doanh nghiệp mua cả trong lẫn ngoài vì lợi nhuận cao. "Nếu sản xuất tự phát không có nơi tiêu thụ, liệu còn ai dám mở rộng nuôi cá ngoài quy hoạch?". Đó là cách kiểm soát tốt nhất nhằm tạo ổn định cho ngành cá tra. Điều cốt lõi là hãy quan tâm đến chất lượng và thương hiệu cho ngành hàng này, vì cá tra Việt Nam là số 1 thế giới nhưng... chưa có thương hiệu.
Theo đại diện một hiệp hội thủy sản ở ĐBSCL (cũng là người nuôi cá tra), ngành cá tra có quy hoạch tỉnh, huyện, khu vực nhằm cấp "giấy thông hành" dưới hình thức mã số ao nuôi. Trong Nghị định 36 và nay được thay thế bằng Nghị định 55 về sản xuất, chế biến và xuất khẩu cá tra cũng có những quy định về vùng nuôi, nhưng việc nuôi tự phát vẫn ồ ạt, cho thấy việc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính của chính quyền chưa thực sự hiệu quả.
Theo Cảnh Kỳ/Tiền phong
Bức tranh ngành thủy sản quý 3/2019: Lợi nhuận các doanh nghiệp lớn lao dốc trước hàng loạt khó khăn Các doanh nghiệp ngành thủy sản đang cùng chung "bài toán" cần giải quyết là vùng nguyên liệu. Hầu hết các doanh nghiệp ngành thủy sản quý 3 đều kinh doanh giảm sút so với cùng kỳ, thậm chí có nhiều doanh nghiệp lỗ nặng. Tuy nhiên, vẫn có nhiều doanh nghiệp ngược lại có kết quả kinh doanh tăng trưởng so với...