Xuất khẩu thủy sản giảm 10%
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 4/2020 đạt 563 triệu USD. Như vậy, giá trị xuất khẩu thủy sản 4 tháng đầu năm đạt 2,18 tỷ USD, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2019.
Chế biến cá tra xuất khẩu tại nhà máy ở tỉnh Đồng Tháp. Ảnh minh họa: TTXVN
Về chủng loại xuất khẩu, hai mặt hàng thủy sản chính là cá tra và tôm đều có sự giảm sút khá mạnh với mức hai con số. Cụ thể, xuất khẩu cá tra đạt 420 triệu USD, giảm gần 32%; tôm đạt 748 triệu USD, giảm gần 12%…
Về thị trường xuất khẩu, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm gần 58% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Giá trị xuất khẩu thủy sản sang các thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ trong quý I vẫn có sự tăng trưởng nhẹ, nhưng hai thị trường là EU và Trung Quốc lại có sự giảm rất mạnh, lần lượt với mức trên 28% và 27,5%.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản nhận định, trên thị trường thế giới, mặc dù dịch COVID-19 bùng phát trong 2 tháng đầu năm 2020 nhưng nhập khẩu tôm của Hoa Kỳ tiếp tục tăng trong tháng 2. Nhập khẩu tôm của Hoa Kỳ tăng có thể là do một số đơn hàng từ dịp cuối năm bị chậm giao và nhu cầu bổ sung vào kho dự trữ sau khi doanh số bán lẻ tôm tại Mỹ tăng.
Tại thị trường các nước thuộc khu vực Địa Trung Hải và Biển Đen, giá các sản phẩm thuỷ sản sụt giảm từ 20-70% chủ yếu do việc suy giảm do giảm cầu từ khu vực khách sạn, nhà hàng, du lịch. Báo cáo đ.ánh giá của Uỷ ban Thuỷ sản Địa Trung Hải (GFCM) về tác động của dịch bệnh COVID-19 lên ngành thuỷ sản tại thị trường các nước này cho thấy giá các sản phẩm thuỷ sản có dấu hiệu phục hồi, ổn định.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, ngành tiếp tục tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản các đối tượng nuôi chủ lực là tôm sú, tôm chân trắng, cá tra và các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao theo hướng nâng cao giá trị thương mại và phát triển bền vững. Ngành sẽ cùng các địa phương nắm bắt tình hình sản xuất nuôi trồng thủy sản và tiêu thụ cá tra tại tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp.
Video đang HOT
Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tổ chức Hội nghị chỉ đạo phát triển sản xuất ngành tôm và ký quy chế phối hợp trong quản lý giống năm 2020; Hội nghị phát triển ngành hàng cá tra năm 2020; Hội nghị tổng kết vụ cá Bắc năm 2019-2020, triển khai vụ cá Nam năm 2020.
Trong 4 tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản đạt gần 2,2 triệu tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, sản lượng thủy sản khai thác đạt 1,18 triệu tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ; trong đó, khai thác biển đạt 1,13 triệu tấn, tăng 0,8%. Sản lượng nuôi trồng đạt 1,02 triệu tấn, tương đương cùng kỳ; trong đó, sản lượng cá các loại ước đạt 728,4 nghìn tấn, giảm 1,8% (cá tra đạt 341,9 nghìn tấn, giảm 9,2%); tôm các loại đạt 171,8 nghìn tấn, tăng 3,1%.
Tại thị trường trong nước, thời điểm đầu tháng 4, giá tôm nguyên liệu tại Bạc Liêu giảm 10.000-20.000 đồng/kg tùy cỡ, nhưng đã phục hồi trở lại vào cuối tháng do khan hiếm nguồn cung.
Hiện giá tôm thẻ ướp đá cỡ 60 con/kg ở mức 100.000 đồng/kg, cỡ 70 con/kg là 95.000 đồng/kg, cỡ 100 con/kg là 90.000 đồng/kg. Giá tôm sú ướp đá cỡ 20 con/kg ở mức 180.000 đồng/kg, giảm 10.000 đồng/kg so với tháng trước, cỡ 30 con/kg 140.000 đồng/kg, cỡ 40 con/kg giảm 15.000 đồng/kg đạt 110.000 đồng/kg.
Kể từ đầu tháng 4 đến nay, thị trường cá tra nguyên liệu trong nước tại Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng giao dịch trầm lắng hơn do sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu từ hầu hết các thị trường do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Trung Quốc, thị trường tiêu thụ sản phẩm cá tra lớn nhất của Việt Nam, đến nay vẫn chưa phục hồi hoàn toàn. Giá bán buôn cá tra tại Đồng bằng sông Cửu Long giảm 500 đồng/kg so với tháng trước, ở mức khoảng 18.000 đồng/kg đối với cá tra loại I (700-900g/con).
Trước tình hình tiêu thụ sụt giảm nên nhu cầu thu mua cá nguyên liệu trên thị trường duy trì ở mức thấp. Các công ty lớn hầu như không thu mua nguyên liệu ngoài mà chủ yếu trong hệ thống liên kết.
Giữ 'đường bơi' cho cá tra Việt
Ngành hàng cá tra Việt Nam đã gặt hái những thành công đáng tự hào, khẳng định vị thế số 1 thế giới trong nhiều năm, nhưng cũng trải qua không ít thăng trầm. Sau thắng lợi kép của năm 2018, cá tra lại trở về "bơi" trong trạng thái loay hoay. Bên cạnh chấp nhận quy luật của thị trường, cần xem xét một cách toàn diện, khắc phục hạn chế, phát huy lợi thế để phát triển bền vững cho ngành hàng này.
Giữ ổn định
Theo Quyết định số 50/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục đối tượng thủy sản nuôi chủ lực của Việt Nam (Quyết định có hiệu lực từ ngày 30/1/2019), cá tra là một trong ba đối tượng thuộc danh mục này (cùng với tôm sú và tôm thẻ chân trắng) phải hội đủ các tiêu chí như: Thuộc vào danh mục loài thủy sản được phép kinh doanh tại Việt Nam; tạo nhiều việc làm và thu nhập cao cho người lao động; phát huy hiệu quả tài nguyên, điều kiện tự nhiên và có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, có năng suất và hiệu quả sản xuất cao; có khả năng thu hút đầu tư để tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh, giá trị xuất khẩu tối thiểu đạt 100 triệu USD/năm...
Sản lượng nuôi tập trung hầu hết ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cá tra là mặt hàng Việt Nam xuất khẩu "thống trị" thế giới nhiều năm qua. Đặc biệt, năm 2018, năm đỉnh cao thành công của ngành hàng này với những kỷ lục về sản lượng nuôi (đạt hơn 1,4 triệu tấn, tăng trên 20% so với năm 2017) và kim ngạch xuất khẩu (đạt 2,26 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước). Về giá cá tra nguyên liệu, từ cuối năm 2017 đến cả năm 2018 và sang đầu năm 2019, giá luôn ở trên mức 25.000 đồng/kg, đỉnh điểm có lúc đạt 36.000 đồng/kg, lãi trên dưới 10.000 đồng/kg. Người nuôi phấn khởi, doanh nghiệp lợi nhuận cao, ngành hàng cá tra có một năm thắng lợi kép khi trúng mùa được giá. Hiệu ứng sau đó là những chương trình, dự án lạc quan tiếp theo như mở rộng diện tích ao nuôi, tăng cường quy mô nhà máy, tìm thị trường... được thực hiện.
Chính lợi nhuận kinh tế trên đã tạo nên tình trạng ồ ạt đào ao thả cá. Điển hình ở Long An, dù không nằm trong các địa phương nuôi nhiều cá tra nhưng sau sự hấp dẫn trên, diện tích nuôi cá tra của tỉnh này lên đến hàng ngàn héc ta. Người dân chạy theo phong trào, bất chấp khuyến cáo. Tuy nhiên, kể từ tháng 3/2019, việc dư thừa nguồn cung, xuất khẩu chậm lại đã khiến giá cá tra nguyên liệu rớt xuống dưới mức 30.000 đồng/kg. Đến tháng 6/2019 giá sụt mạnh xuống mức dưới 20.000 đồng/kg và dao động 18-20.000 đồng/kg từ đó đến cuối năm. Người nuôi lỗ 5-7.000 đồng/kg. Cùng với giá cá nguyên liệu, giá cá tra giống cũng giảm mạnh, không ít người lại đành "treo ao"...
Làm gì để giữ vững vị thế số 1?
Với lợi thế về sản lượng nuôi nhiều nhất thế giới, xuất khẩu cá tra Việt Nam đã giữ vị thế "độc tôn", "một mình một chợ" nhiều năm trước đây, nhưng ngành hàng này cũng trải qua không ít thăng trầm, các rào cản thuế quan và phi thuế quan đặt ra không ít thách thức. Trong khi đó, những năm gần đây, các nước như Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh cũng đã nuôi cá tra với sản lượng hàng trăm ngàn tấn mỗi năm. Hay ở Trung Quốc là thị trường tiêu thụ số 1 của cá tra Việt Nam thì hiện nay họ cũng nuôi được cá này với sản lượng hàng chục ngàn tấn. Đó là những "đối thủ" cạnh tranh nhãn t.iền của cá tra Việt.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong hai thị trường dẫn đầu của xuất khẩu cá tra Việt Nam, thị trường Trung Quốc đã hồi phục mạnh và vượt xa Mỹ. Trước đây, Việt Nam chỉ xuất khẩu cá tra nguyên con tới một số tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc, nhưng nay sản phẩm cá tra phi-lê có mặt tại những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải và Đại Liên.
Nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long
Còn thị trường Mỹ, rào cản thương mại và kỹ thuật, giá cá tra nguyên liệu trong nước giảm mạnh tác động trực tiếp tới giá xuất khẩu khiến cho giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường này giảm.
Với thị trường Trung Quốc, ông Võ Hùng Dũng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam cho rằng các nhà xuất khẩu Việt Nam đã quen với việc xuất khẩu chính ngạch là lý do cho việc tăng trưởng trở lại. Xét về nhu cầu và sức tiêu thụ thì thị trường Trung Quốc còn nhiều dư địa cho cá tra, vấn đề là chính sách thường hay thay đổi hoặc hành vi của các nhà nhập khẩu trong chiến lược cạnh tranh.
Ngoài hai thị trường lớn trên, ở các thị trường quy mô nhỏ hơn khó đoán định sự thay đổi thất thường. Bức tranh xuất khẩu cá tra năm 2020 phụ thuộc chủ yếu vào thị trường Trung Quốc và sự phục hồi của thị trường Mỹ cho thấy tính bấp bênh của các dự báo. Với thị phần trên 30% của Trung Quốc, có thể nói độ rủi ro là cực kỳ cao, các nhà sản xuất nên thận trọng. Nguồn cung cần được kiểm soát tốt cho đến khi các thông tin rõ ràng hơn từ thuế chống bán phá giá của Mỹ cũng như thông tin từ thị trường Trung Quốc. Theo ông Dũng, không làm chủ được thị trường thì phải kiểm soát trở lại chính mình. Tiếc rằng chẳng có số liệu đáng tin về nguồn cung, ai cũng kêu gọi giảm sản lượng, tăng tính minh bạch thông tin, nhưng chẳng ai chịu là người đi đầu để làm việc này.
Những người nuôi cá tra cho rằng để giải quyết tình trạng mất kiểm soát, cần phải "đánh" vào kinh tế. Doanh nghiệp phải cam kết chỉ mua cá những ao nuôi nằm trong vùng quy hoạch, không mua bên ngoài. Theo ông Dương Nghĩa Quốc - Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam, đa phần doanh nghiệp đều có liên kết xây dựng vùng nuôi với nông dân, sản xuất có chứng nhận đàng hoàng, nhưng khi có nhu cầu cao từ khách hàng thì doanh nghiệp mua cả trong lẫn ngoài vì lợi nhuận cao. "Nếu sản xuất tự phát không có nơi tiêu thụ, liệu còn ai dám mở rộng nuôi cá ngoài quy hoạch?". Đó là cách kiểm soát tốt nhất nhằm tạo ổn định cho ngành cá tra. Điều cốt lõi là hãy quan tâm đến chất lượng và thương hiệu cho ngành hàng này, vì cá tra Việt Nam là số 1 thế giới nhưng... chưa có thương hiệu.
Theo đại diện một hiệp hội thủy sản ở ĐBSCL (cũng là người nuôi cá tra), ngành cá tra có quy hoạch tỉnh, huyện, khu vực nhằm cấp "giấy thông hành" dưới hình thức mã số ao nuôi. Trong Nghị định 36 và nay được thay thế bằng Nghị định 55 về sản xuất, chế biến và xuất khẩu cá tra cũng có những quy định về vùng nuôi, nhưng việc nuôi tự phát vẫn ồ ạt, cho thấy việc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính của chính quyền chưa thực sự hiệu quả.
Theo Cảnh Kỳ/Tiền phong
Xuất khẩu thủy sản giảm hơn 9,7% trong quý I/2020 Quý I/2020, xuất khẩu thủy sản giảm do xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc và EU giảm, trong khi xuất khẩu sang Nhật Bản và Mỹ vẫn tăng nhưng mức tăng thấp Ảnh minh họa. Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết, tháng 3/2020 xuất khẩu thủy sản của Việt...