Xử lý nợ xấu chờ giải tỏa rào cản pháp luật
Dưới góc độ pháp lý, nợ xấu có thể được tiếp cận trên nhiều góc độ, phương diện khác nhau.
Cần hoàn thiện pháp luật về bán các khoản nợ xấu theo cơ chế thị trường
Trong mối quan hệ cho vay và đi vay, nợ xấu có thể hiểu là việc bên đi vay không thực hiện trả nợ đúng hạn, trả nợ không đầy đủ, hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ trả nợ. Ngược lại, ở góc độ không phải là vấn đề pháp lý, nợ xấu thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội nào, đối với mọi nền kinh tế và hệ thống tín dụng.
Kinh nghiệm pháp luật của nhiều quốc gia và ở Việt Nam cho thấy, có nhiều nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu hoặc khó xử lý nợ xấu. Trong đó, sự không minh bạch, thiếu tính thống nhất và ổn định, thiếu tính dự báo của pháp luật về tài sản, sở hữu, giao dịch và tố tụng là các nguyên nhân chính “khuyến khích” bên đi vay chây ỳ thực hiện nghĩa vụ trả nợ, hoặc làm cho bên đi vay mất khả năng trả nợ, cũng như bên cho vay khó thu hồi nợ.
Nằm trong chiến lược hoàn thiện thể chế kinh tế – chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực cải cách đáng kể hệ thống pháp luật có liên quan. Bên cạnh Hiến pháp năm 2013, nhiều bộ luật, luật quan trọng liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến giải quyết nợ xấu đã được sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Doanh nghiệp, Luật Công chứng, Luật Đầu tư…
Các văn bản pháp luật này đang dần đi vào cuộc sống, từng bước tháo gỡ những rào cản pháp luật về tài sản, sở hữu, giao dịch và tố tụng, nhất là sau khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực (ngày 1/1/2017), những rủi ro pháp lý trong quan hệ cho vay – đi vay sẽ có sự cải thiện đáng kể, bao gồm:
Thứ nhất, quy định thống nhất và thông thoáng hơn về tài sản bảo đảm (TSBĐ), tổ chức tín dụng (TCTD), bên vay hoặc bên thứ ba được tự do ý chí, tự do thỏa thuận về việc đưa tài sản làm đối tượng của bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Trong đó, ghi nhận TSBĐ có thể là bất động sản và động sản hiện có, hoặc hình thành trong tương lai. TSBĐ có thể được mô tả chung, có thể là kho hàng…, không hạn chế việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của người thứ ba, các bên trong bảo lãnh có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh…
Có nhiều nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu hoặc khó xử lý nợ xấu
Cùng với sự ghi nhận về quyền sử dụng đất là quyền tài sản, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt, quy định mới về TSBĐ sẽ giúp cho doanh nghiệp, người dân bằng tài sản của mình có thể huy động vốn được thuận lợi hơn, tạo khả năng thanh toán nợ lành mạnh hơn, TCTD có nhiều lựa chọn hơn về TSBĐ và khuyến khích TCTD nhận TSBĐ để bảo toàn, phát triển nguồn vốn vay của mình.
Thứ hai, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của TCTD là người thứ ba ngay tình đối với TSBĐ trong giao dịch dân sự vô hiệu theo nguyên tắc “hiệu lực công tín”, tăng khả năng thu hồi nợ khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Theo đó, trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó tài sản này được được chuyển giao (bao gồm cả chuyển giao pháp lý trong biện pháp thế chấp) bằng một giao dịch bảo đảm cho TCTD ngay tình và TCTD này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm, thì giao dịch bảo đảm không bị vô hiệu; hoặc trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng TCTD lại xác lập giao dịch bảo đảm với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản, nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa đổi thì giao dịch bảo đảm cũng không bị vô hiệu. Trong những trường hợp này, chủ sở hữu không có quyền đòi lại TSBĐ từ TCTD, mà chỉ có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch bảo đảm được xác lập với TCTD phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, tách biệt giữa thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực pháp luật, thời điểm tài sản được chuyển giao từ bên bảo đảm cho bên nhận bảo đảm là TCTD và thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Trong đó, quy định rõ biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc TCTD nắm giữ, hoặc chiếm giữ TSBĐ, khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì TCTD được quyền truy đòi TSBĐ và được quyền ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận TSBĐ.
Video đang HOT
Khi có căn cứ xử lý TSBĐ, TCTD có quyền yêu cầu người đang giữ TSBĐ giao TSBĐ đó cho mình để xử lý. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì TCTD có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Quy định này góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính minh bạch trong xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm, tạo cơ chế pháp lý mạnh hơn trong xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
Thứ tư, áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đã chính thức được ghi nhận đối với các vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Đây là tiền pháp lý quan trọng để các TCTD có thể nhanh chóng nhận được sự cho phép của tòa án trong việc thực hiện việc truy đòi TSBĐ và xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
Tuy nhiên, xét về hiệu quả giải quyết nợ xấu và yêu cầu cho việc tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp, thì bên cạnh thành quả lập pháp quan trọng nêu trên, Nhà nước cũng cần phải nhất quán, quyết liệt hơn nữa trong thực hiện các giải pháp, định hướng cơ bản sau đây:
Xây dựng Luật Đăng ký tài sản để thiết lập hệ thống thông tin, thủ tục pháp lý minh bạch, công khai về tình trạng pháp lý của tài sản, về đăng ký tài sản, về đăng ký giao dịch để xác lập, chuyển giao quyền, phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bảo vệ người thứ ba ngay tình và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong đăng ký tài sản; khắc phục tình trạng manh mún, không đồng bộ về hệ thống đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch hiện nay;
Bên cạnh đó, pháp luật liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đến xử lý nợ xấu cũng cần phải được rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành quy định mới kịp thời, để bảo đảm thống nhất trong quy định về TSBĐ (thực tiễn hiện nay vẫn còn có sự khác nhau về nhận thức và áp dụng pháp luật liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của người thứ ba, đặc biệt là quyền sử dụng đất hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến bất động sản hình thành trong tương lai). Làm rõ hơn việc chuyển giao thực tế TSBĐ và chuyển giao pháp lý TSBĐ cho TCTD là người thứ ba ngay tình; thiết lập hành lang pháp lý để quyền truy đòi tài sản được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi và hợp pháp, tránh nguy cơ phát sinh nợ xấu tiếp diễn, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản được tôn trọng, bảo vệ…
Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bán các khoản nợ xấu theo cơ chế thị trường; cụ thể hóa quy định của Bộ luật Dân sự về chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ vào trong các quan hệ xử lý nợ xấu. Việc giải quyết nợ xấu thông qua thiết chế của Công ty Quản lý tài sản (VAMC) là điều tốt, nhưng cũng cần xây dựng cơ chế thị trường trong xử lý nợ xấu để tạo ra nhiều kênh mua bán nợ linh hoạt, nhanh chóng, hiệu quả hơn và thu hồi cao nhất giá trị của các khoản nợ.
Đặc biệt, cần nhanh chóng có những hướng dẫn cụ thể, thống nhất về việc áp dụng thủ tục rút gọn trong xử lý nợ xấu đối với những khoản nợ có bảo đảm bằng biện pháp đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, hoặc TCTD đang trực tiếp nắm giữ, chiếm giữ TSBĐ, quan hệ vay nợ rõ ràng, bên vay hoặc bên bảo đảm đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ.
Nguyễn Hồng Hải, Phó vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự – kinh tế, Bộ Tư pháp
Đặc san Toàn cảnh ngân hàng 2016
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Bán nợ xấu theo cơ chế thị trường, có dễ thực thi?
Sau hơn 3 năm thực hiện Quyết định 254 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015, chương trình tái cơ cấu đã đạt được một số tiến triển khả quan.
Tài sản thế chấp vay nợ hiện chiếm trên 70% là bất động sản
Công ty Quản lý tài sản (VAMC) đã được thành lập, tiếp quản phần lớn nợ xấu từ các ngân hàng và đã xử lý được một phần số nợ xấu này, tạo dư địa cho các ngân hàng tiếp tục triển khai các hoạt động tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống liên tục giảm và chỉ còn dưới 3% đến cuối năm 2015. Các ngân hàng cũng đã thực hiện phân loại nợ khắt khe hơn.
Những thành công ban đầu như vậy là rất đáng khích lệ, nhưng trên thực tế, xử lý nợ xấu của hệ thống còn không ít khó khăn, mà nếu không khơi thông được nhiều vướng mắc, nợ xấu vẫn là "quả bom nổ chậm" rình rập các ngân hàng và đe dọa an toàn hệ thống.
Nhiều vướng mắc
Giải quyết vấn đề nợ xấu một cách bền vững cần có các giải pháp tổng thể, đa chiều, bao gồm cả vấn đề cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và DN. Trên thực tế, nợ xấu dù có bán cho VAMC vẫn là nợ xấu, trừ khi các ngân hàng xử lý được nó bằng cách thu nợ, bán tài sản...
Thế nhưng, trong tình hình hiện nay, việc xử lý không dễ, nếu các ngân hàng không chuyển qua cho VAMC thì không có cách nào để đưa nợ xấu về ngưỡng an toàn. Và nếu như vậy, các ngân hàng sẽ rất khó có thể giao dịch trong quá trình hoạt động với đối tác, khách hàng. Vì thế, dẫu có thể chưa xử lý triệt để, VAMC được xem là công cụ đắc lực cho các ngân hàng trong việc làm sạch bảng cân đối kế toán.
Tuy nhiên, phần lớn nợ xấu chuyển sang VAMC mang tính chất "nhập kho" tạm thời nhiều hơn là giải quyết dứt điểm. Vấn đề xử lý nợ hiện nay vẫn còn khá nhiêu khê trong khâu khởi kiện, thu giữ, bán, phát mãi tài sản nên rất khó có thể thu hồi được nợ, vì thủ tục ra tòa rất phức tạp. Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần có sự thay đổi trong một số điều luật, cũng như sự phối hợp chặt chẽ của các ngành có liên quan để đảm bảo thực thi quyền thu giữ, phát mãi tài sản thế chấp trong quá trình xử lý nợ được nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Quyết định số 618/QĐ-NHNN phê duyệt việc xây dựng và triển khai phương án mua nợ xấu theo giá thị trường của VAMC.
Theo đó, Quyết định 618 quy định cụ thể, chi tiết phạm vi, đối tượng, điều kiện đối với các khoản nợ xấu mua theo giá thị trường; nguyên tắc, trình tự thực hiện mua nợ xấu theo giá thị trường; nguyên tắc xác định giá mua nợ; nguồn vốn sử dụng để mua nợ theo giá thị trường; xử lý các khoản nợ xấu đã mua. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của các đơn vị thuộc NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, Công ty VAMC, TCTD trong việc tổ chức thực hiện mua nợ xấu theo giá thị trường.
Rất cần cơ chế thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia xử lý nợ xấu
Kể từ khi thành lập (năm 2013) đến 24/3/2016, VAMC đã mua nợ xấu của 41 TCTD bằng trái phiếu với số lượng khách hàng là 16.075; tổng số 24.556 khoản nợ tương ứng với 244.082 tỷ đồng tổng số dư nợ gốc, phát hành 208.636 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt để mua 237.350 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng. Lũy kế từ năm 2013 đến 24/3/2016, VAMC đã phối hợp với các TCTD thu hồi nợ được 26.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ khoảng 11% trên số dư nợ gốc.
Hiện có khá nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm tới các khoản nợ xấu của Việt Nam. Tuy vậy, do vướng mắc nhiều thủ tục pháp lý nên cho đến nay, việc bán nợ cho nhà đầu tư vẫn chưa thể triển khai, chưa kể nhà đầu tư nước ngoài chỉ muốn mua nợ với giá rẻ. Do đó, phương án bán nợ (chủ yếu là tài sản bất động sản) khả thi nhất vẫn là nhắm tới các nhà đầu tư trong nước.
Với việc NHNN đã ban hành quyết định xây dựng và triển khai phương án mua nợ xấu theo giá thị trường, hoạt động này chắc chắn sẽ được thực hiện theo cơ chế đã có, nhưng có thực hiện được hay không mới là vấn đề quan trọng. Bởi cơ chế xử lý nợ xấu hiện nay còn nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, vấn đề định giá nợ xấu hiện nay đang vướng và không biết bên nào sẽ là người định giá tài sản đảm bảo của khoản nợ khi thực hiện mua - bán theo cơ chế thị trường: ngân hàng định giá một kiểu, VAMC định giá một kiểu..., hay việc định giá do bên thứ 3.
Thứ hai, việc mua nợ xấu theo cơ chế thị trường có áp dụng đối với số nợ xấu ngân hàng đã bán cho VAMC từ trước đến nay, hay chỉ là các khoản nợ xấu phát sinh trong tương lai. Vì nếu mua - bán nợ xấu theo cơ chế thị trường đối với số nợ VAMC đã "gom" về là rất khó, do khi mua nợ xấu từ ngân hàng, VAMC chỉ đưa lại trái phiếu đặc biệt. Đồng thời, để xử lý việc mua - bán nợ theo cơ chế thị trường thì ai là người chấp nhận lỗ trong việc xử lý nợ xấu?
Vướng mắc thứ ba chính là tài sản thế chấp vay nợ hiện chiếm trên 70% tài sản đảm bảo bằng bất động sản, nhưng không dễ dàng bán. Cơ chế pháp lý chưa có, xử lý tài sản đảm bảo vẫn nhiêu khê..., nên việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng còn nhiều khó khăn. Đáng chú ý, với dự thảo sửa đổi Thông tư 36/2014/TT-NHNN, cũng đã và đang tạo áp lực lên quá trình xử lý nợ của ngân hàng.
Khó phát mãi tài sản
Thời gian qua, Thông tư 36/2014/TT-NHNN đã tác động lớn tới dòng vốn trên nhiều thị trường, cả thị trường tiền tệ, vốn và bất động sản. Thông tư này mới triển khai thực hiện được khoảng 1 năm, song đã góp phần giúp thị trường bất động sản phục hồi và tăng trưởng. Tuy nhiên, mới đây, NHNN vừa công bố Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36, tạo ra lo ngại cho sự phát triển của thị trường bất động sản và việc cung ứng vốn của hệ thống ngân hàng, cũng như xử lý nợ xấu.
Theo số liệu thống kê của NHNN, tính đến ngày 31/12/2015, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung hạn, dài hạn toàn hệ thống là 31% và hiện tỷ lệ này còn cao hơn. Việc giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn của từng khối cho thấy định hướng hạn chế cấp tín dụng trung, dài hạn, giảm rủi ro thanh khoản, đồng thời cũng giảm cho vay đối với lĩnh vực bất động sản (do các khoản vay này thường là vay trung, dài hạn) của NHNN. Qua đó, NHNN đang hướng tới việc tăng cường tính an toàn và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Trong ngắn hạn, điều này nhiều khả năng sẽ khiến tăng trưởng tín dụng 2016 ở mức thận trọng hơn.
Bên cạnh đó, NHNN quy định trong dự thảo về việc nâng hệ số rủi ro đối với "các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản" từ 150% lên 250%. Việc nâng này sẽ ảnh hưởng đến chỉ số an toàn vốn (CAR) mà theo quy định hiện nay, chỉ số CAR phải lớn hơn 9%.
Từ số liệu ở trên, rõ ràng với quy định này thì ngân hàng sẽ không còn nhiều "room" để sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, đặc biệt là cho vay trong lĩnh vực bất động sản (không quá 10%). Hiện tại, theo thống kê, thị trường bất động sản vẫn phải dựa khá nhiều vào nguồn tín dụng ngân hàng, với tỷ lệ khoảng 60%.
Do đó, việc quy định như trong Dự thảo sửa đổi Thông tư 36 có thể vô tình gây ra sự chèn ép dòng chảy tín dụng vào thị trường bất động sản, thu hẹp cơ hội cho sự tăng trưởng trong dài hạn của thị trường này. Đồng thời, qua đó cũng ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh phát mãi tài sản thu hồi nợ của ngân hàng.
Vì thế, nếu nói năm nay lạc quan về xử lý nợ xấu là chưa thể, do việc xử lý tài sản đảm bảo, định giá tài sản trong xử lý nợ xấu còn nhiều vướng mắc, khó khăn..., nên chưa thể kêu gọi sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong mua - bán nợ, kể cả khi cơ chế mua theo giá thị trường được triển khai.
Trong khi đó, việc quản lý nợ xấu vẫn còn nhiều thách thức, một phần là do mức độ tuân thủ các nguyên tắc Basel còn thấp. Chức năng giám sát và chức năng thanh tra cần được nâng cao. Giám sát hợp nhất phải được thực hiện một cách hiệu quả, hoạt động giám sát phải năng động hơn và liên tục cải thiện. Muốn vậy, cần quy định rõ mục đích và trách nhiệm của các cơ quan tham gia giám sát. Cần tăng cường quy định về báo cáo và công khai tài chính đối với ngân hàng, đồng thời với chất lượng thông tin, nhất là thông tin phi tài chính.
Bên cạnh những nỗ lực đã có, điều cần thiết nhất hiện nay là làm sao để thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia xử lý nợ xấu, rót thêm vốn cho các ngân hàng để giải quyết hiệu quả các khoản nợ khó đòi, làm sạch bảng cân đối tài sản, để có khả năng tiếp tục cấp tín dụng một cách lành mạnh, bền vững.
Qua quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua, vẫn còn một số vấn đề quan trọng mà cơ quan quản lý và các nhà băng cần hành động nhằm ngăn ngừa nợ xấu phát sinh lớn trong thời gian tới.
Trong đó, Nhà nước cần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để các thành phần kinh tế hoạt động và phát triển bền vững; các ngân hàng mở rộng tín dụng phải đi cùng với kiểm soát chất lượng tín dụng, nâng cao năng lực quản trị rủi ro; cần nâng cao năng lực quản trị, điều hành của DN, khả năng cạnh tranh và tự phòng vệ của nền kinh tế và DN trước những ảnh hưởng tiêu cực của biến động kinh tế thế giới và khu vực; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, thanh tra, giám sát của Nhà nước đối với DN, ngân hàng; phát hiện, cảnh báo và xử lý nghiêm các vi phạm quy định của pháp luật về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Mua cổ phiếu ngân hàng phải chấp nhận thực tế "không cổ tức" Trao đổi với Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng, ông Lê Anh Tuấn, Kinh tế trưởng, Giám đốc Khối nghiên cứu Dragon Capital nhận định, dù còn những khó khăn nhất định, song việc xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong năm nay. Bức tranh hoạt động của ngành ngân hàng năm nay sẽ sáng...