Xây dựng cơ sở dữ liệu hỗ trợ nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng
Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng là một trong những giải pháp có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội, góp phần tăng tính bình đẳng, giúp mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển. Đồng thời, góp phần tạo việc làm, tăng sinh kế cho người dân và doanh nghiệp, hỗ trợ ổn định tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Mục tiêu đến năm 2020: 70% dân số trưởng thành có tài khoản thanh toán tại hệ thống ngân hàng…
Mục tiêu phổ cập dịch vụ tài chính toàn dân
Liên quan trực tiếp tới ngành ngân hàng, ngày 5/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1726/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là đơn vị chủ trì tổ chức triển khai, theo dõi, đôn đốc thực hiện Đề án và định kỳ hàng năm sơ kết, đánh giá, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Trong đó, có 3 vấn đề được Đề án đề cập xuyên suốt từ mục tiêu đến giải pháp là mở rộng kênh cung ứng dịch vụ ngân hàng; gia tăng số lượng và chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thiết kế đơn giản, dễ dàng tiếp cận đối với dân cư có độ tuổi trưởng thành và doanh nghiệp, nhất là dân cư ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người nghèo; gia tăng mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Ông Nguyễn Đức Long, Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê, Ngân hàng Nhà nước
Đề án cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát và 8 mục tiêu cần đạt đến năm 2020: Thứ nhất, 70% dân số trưởng thành có tài khoản thanh toán tại hệ thống ngân hàng; thứ hai, ít nhất 20 chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại trên 100.000 dân số trưởng thành; thứ ba, 30.000 máy ATM (khoảng 40 máy ATM trên 100.000 dân số trưởng thành); thứ tư, tỷ lệ chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng thương mại tại địa bàn nông thôn đạt khoảng 15%, khoảng 35-40% số người trưởng thành ở nông thôn có tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng; thứ năm, khoảng 50-60% số doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động vay vốn của các tổ chức tín dụng; thứ sáu, tăng gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại.
Để có thể triển khai thực hiện và đánh giá hiệu quả đề án tổng thể này, một yêu cầu quan trọng là phải xây dựng được hệ cơ sở dữ liệu cho phép đánh giá thực trạng, theo dõi, hoạch định và đánh giá chính sách hiệu quả giúp nâng cao khả năng tiếp cận dịch ngân hàng của nền kinh tế.
Vì vậy, tại Đề án tổng thể ban hành kèm theo Quyết định 1726, Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao Ngân hàng Nhà nước xây dựng một trong những đề án cốt lõi là Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê về tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng. Đây là cơ sở, là điều kiện tiền đề giúp đo lường, đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của người dân và doanh nghiệp trong nền kinh tế, từ đó giúp hoàn thiện và xây dựng chính sách nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng.
Đây cũng là một bộ phận cốt lõi để thực hiện Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Đây là nhiệm vụ mới khá thách thức do từ trước đến nay, các số liệu về tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng ở mức độ chi tiết đến từng cá nhân, doanh nghiệp hoặc phân bố theo các đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, thu nhập, phân bố địa lý mới chỉ được thu thập, lưu trữ chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, cũng chưa có một cuộc điều tra khảo sát trên quy mô rộng hay toàn quốc nào đủ lớn để giúp thu thập các thông tin về vấn đề này.
Thách thức và giải pháp thực hiện
Trên thực tế, tương tự như ở các nước, hệ thống thống kê số liệu thu thập từ các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước hiện nay được thiết kế với mục tiêu chủ yếu nhằm đáp ứng việc thực hiện có hiệu quả các chức năng quan trọng nhất của ngân hàng trung ương là chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng ngân hàng của các ngân hàng.
Chỉ để riêng đáp ứng yêu cầu này, hệ thống số liệu báo cáo thống kê đã rất nhiều bảng biểu chỉ tiêu và yêu cầu cao do đặc thù và tính chất của các dữ liệu về tài chính đòi hỏi vừa nhanh, vừa chính xác, lại vừa phải tổng hợp và thống nhất trên toàn ngân hàng, toàn hệ thống tổ chức tín dụng, nên việc bổ sung thêm các chỉ tiêu để triển khai đề án cũng phải rà soát kỹ.
Video đang HOT
Do đó, một trong những giải pháp được đặt ra để xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê về tiếp cận dịch vụ tài chính – ngân hàng là yêu cầu các tổ chức tín dụng định kỳ báo cáo thêm một số chỉ tiêu có tính chọn lọc, đảm bảo khả năng thống kê từ hệ thống ngân hàng lõi, chẳng hạn các chỉ tiêu về cơ sở hạ tầng tài chính như số lượng máy ATM, chi nhánh, điểm giao dịch, máy POS, tình hình hoạt động của tài khoản phân tổ chi tiết theo địa bàn nông thôn, thành thị, giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, thu nhập của khách hàng…
Bên cạnh việc thu thập số liệu từ hệ thống các tổ chức tín dụng là nơi cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng, số liệu về tình hình tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng đương nhiên còn có thể thu thập trực tiếp từ đối tượng thụ hưởng hiện tại hoặc tiềm năng, đó chính là các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp (gọi là số liệu bên cầu).
Do hầu như không nước nào trên thế giới yêu cầu các đối tượng này phải báo cáo chính thức định kỳ cho cơ quan quản lý về tình hình tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng của mình, đồng thời do sự yếu kém phổ biến ở các nước đang phát triển trong việc liên kết, tích hợp các thông tin cơ sở dữ liệu về thuế, ngân hàng, tài chính… nên ở hầu hết các quốc gia này, việc thu thập số liệu bên cầu chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức khảo sát, điều tra trên quy mô quốc gia.
Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra chính thức, đủ rộng về tình hình tiếp cận dịch vụ tài chính, ngân hàng từ các đối tượng thụ hưởng của nền kinh tế.
Mới chỉ có một vài câu hỏi cơ bản được đưa vào trong cuộc Tổng điều tra kinh tế (định kỳ 5 năm/lần) của Tổng cục Thống kê, nhưng tần suất thưa và thông tin thu được không nhiều do số lượng câu hỏi ít và chung chung.
Một vài tổ chức quốc tế cũng đã từng tiến hành điều tra tại Việt Nam như Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD) về hiểu biết của người dân về kiến thức tài chính hay Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEO) về mức độ tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Đồng thời, theo định kỳ 3 năm/lần, Ngân hàng Thế giới (WB) có tổ chức điều tra một số vấn đề cơ bản về cách thức người dân tiết kiệm, vay vốn, thanh toán và quản lý rủi ro tài chính để xây dựng bộ cơ sở dữ liệu tài chính toàn diện toàn cầu ( Global Findex), mới đây nhất là trên quy mô mẫu 1.000 người trưởng thành ở Việt Nam.
Tuy nhiên, tất cả các cuộc điều tra này đều được tiến hành trên quy mô nhỏ, nằm trong khuôn khổ các cuộc điều tra đồng loạt trên phạm vi toàn cầu, chủ yếu thu thập một vài chỉ tiêu nhằm so sánh giữa các nước trên thế giới. Do vậy, kết quả của cuộc điều tra không thể đại diện cho tình hình thực tế của cả nước.
Vì vậy, kể từ tháng 12/2018, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với Viện Khoa học thống kê (ISS) – Tổng cục Thống kê thực hiện cuộc khảo sát “Tiếp cận dịch vụ tài chính đối với cá nhân” với sự hỗ trợ của WB.
Cuộc khảo sát nhằm thu thập các thông tin, số liệu bên cầu về khả năng tiếp cận, hiểu biết và sử dụng các dịch vụ tài chính của người trưởng thành tại Việt Nam ở cấp quốc gia trên 6 vùng địa lý khắp cả nước.
Kết quả thu được từ cuộc khảo sát là cơ sở và căn cứ quan trọng để đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính, đưa ra chính sách nhằm nâng cao khả năng và chất lượng tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính của người dân; đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính, kênh cung ứng phù hợp với nhu cầu của người sử dụng, hướng tới các nhóm đối tượng mục tiêu dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin; phát triển hệ thống các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính bền vững, có trách nhiệm, tăng cường năng lực để phát huy vai trò của các tổ chức tài chính, đặc biệt trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện; hình thành những người tiêu dùng tài chính có kiến thức, hiểu biết về các sản phẩm, dịch vụ tài chính do các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính chính thức cung cấp.
Cuộc khảo sát này được tiến hành theo phương pháp chọn mẫu, với cỡ mẫu là 5.500 cá nhân từ 18 tuổi trở lên được chọn từ 250 địa bàn khảo sát.
Phiếu khảo sát được chia thành 7 phần với 48 câu hỏi, được thiết kế để thu thập thông tin từ đáp viên về nhiều nội dung: Một là, thông tin về nhân khẩu học như họ tên đáp viên, dân tộc, giới tính, năm sinh, trình độ giáo dục, nghề nghiệp, thu nhập;
Hai là, thông tin về điều kiện cơ sở hạ tầng tài chính mà đáp viên có thể tiếp cận như máy tính kết nối Internet, máy ATM, bưu điện, các tổ chức tài chính…;
Ba là, thông tin về tài khoản và thanh toán qua tài khoản của người trả lời như tình hình mở tài khoản, mở thẻ ATM tại ngân hàng, tình hình sử dụng tài khoản, thẻ ngân hàng, hình thức gửi/rút/chuyển tiền/nhận tiền vào/từ tài khoản, tình hình sử dụng các dịch vụ Internet Banking, Mobile Banking, ví điện tử, các dịch vụ mua sắm trực tuyến của người trả lời trong 12 tháng…;
Bốn là, tình hình tiết kiệm, các hình thức tiết kiệm của người trả lời trong 12 tháng qua;
Năm là, tình hình tín dụng (vay nợ), các hình thức vay vốn, lý do vay vốn, tình hình và kế hoạch trả nợ, tình hình sử dụng thẻ tín dụng của người trả lời;
Sáu là, quan điểm về vấn đề mua bảo hiểm, các dịch vụ bảo hiểm mà người trả lời có tham gia; bảy là, một số hiểu biết về tài chính của đáp viên như nguồn tài chính có thể huy động khi gặp tình trạng khẩn cấp, kế hoạch chi tiêu, mức độ hiểu biết về các sản phẩm, dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính…
Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp trên, trong thời gian tới, hệ thống cơ sở dữ liệu về tiếp cận dịch vụ tài chính – ngân hàng sẽ từng bước được xây dựng và hoàn thiện, qua đó hỗ trợ tích cực cho công tác xây dựng chính sách nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của mọi tầng lớp dân cư và doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Theo Nguyễn Đức Long
Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam 2019
"Sứ mệnh phục vụ nông nghiệp, nông thôn của Agribank luôn phải đặt lên hàng đầu"
Đó là chia sẻ của ông Tiết Văn Thành, Tổng giám đốc Agribank với Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng về hoạt động của Ngân hàng thời gian qua.
Nhìn lại năm 2018, có thể thấy đó là một năm thành công của Agribank trên nhiều mặt, đặc biệt là kết quả kinh doanh ấn tượng. Là người điều hành Ngân hàng, ông có thể cho biết, con số ấn tượng đó là đóng góp từ những lĩnh vực kinh doanh nào?
Nền kinh tế Việt Nam năm 2018 đạt nhiều kết quả tốt đẹp, nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố và thị trường tiền tệ ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong đó có Agribank.
Với sự đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực của tập thể lãnh đạo và người lao động, Agribank đã đạt kết quả kinh doanh ấn tượng trong năm 2018, các chỉ tiêu kinh doanh tăng trưởng gấp hơn 2 lần so với thời điểm bắt đầu tái cơ cấu và là năm thứ 3 liên tiếp hoàn thành toàn diện các mục tiêu kinh doanh hàng năm.
Trong đó, tổng tài sản đạt gần 1,3 triệu tỷ đồng, tăng 11,3%; lợi nhuận đạt trên 7.500 tỷ đồng, tăng 50% so với năm trước; khả năng sinh lời, năng suất lao động tăng cao.
Ông Tiết Văn Thành, Tổng giám đốc Agribank
Nguồn vốn thị trường 1 tăng 11,8%; quy mô tín dụng và đầu tư đạt trên 1,2 triệu tỷ đồng, tín dụng tăng trưởng 14,6%, dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm trên 70% dư nợ cho vay. Nợ xấu được kiểm soát có hiệu quả ở mức 1,5%, thu hồi nợ sau xử lý vượt chỉ tiêu đề ra. Agribank đã hoàn thành trước thời hạn về xử lý và kiểm soát nợ xấu theo Phương án cơ cấu lại giai đoạn 2016 - 2020 được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt (dưới 3%).
Bên cạnh những kết quả tích cực từ huy động vốn, cho vay và đầu tư còn có sự đóng góp rất lớn từ lĩnh vực dịch vụ với tổng doanh thu đạt 5.400 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2017. Kinh doanh dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ với hơn 14 triệu khách hàng, 213 sản phẩm, dịch vụ ngân hàng được phân thành 10 nhóm cung ứng trên 7 kênh phân phối truyền thống và hiện đại (2.300 chi nhánh, gần 3.000 ATM, CDM và trên 20.000 EDC/POS, Mobile banking, Internet banking, CMS, tổ liên kết, ngân hàng đại lý và 68 điểm giao dịch lưu động) đã góp phần từng bước chuyển đổi mô hình kinh doanh từ phụ thuộc vào tín dụng sang kinh doanh đa dịch vụ, phù hợp với định hướng cơ cấu lại.
Với nền tảng thành công năm 2018, ông có thể chia sẻ những dự kiến trong hoạt động kinh doanh của Agribank năm 2019? Ngân hàng đề ra những giải pháp nào để triển khai thành công các mục tiêu đặt ra?
Phát huy kết quả ấn tượng đã đạt được trong năm 2018, để tạo dấu mốc chuẩn bị chuyển giao lịch sử từ NHTM 100% vốn nhà nước sang NHTM cổ phần và hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản trong phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020.
Năm 2019, Agribank phấn đấu đạt các mục tiêu sau: Tổng tài sản tăng từ 10 - 13%; nguồn vốn huy động thị trường 1 tăng từ 13 - 15%; dư nợ cho vay nền kinh tế tăng từ 11 - 14%, tiếp tục là NHTM giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực tín dụng nông nghiệp, nông thôn với tỷ lệ cho vay lĩnh vực này chiếm 65 - 70% dư nợ của Agribank; kiểm soát có hiệu quả nợ xấu ở mức dưới 3% và dự kiến mua lại trước hạn toàn bộ các khoản nợ đã bán cho VAMC bằng trái phiếu đặc biệt; tăng năng lực tài chính, đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định.
Để hoàn thành kế hoạch, trong năm 2019, ngoài việc phải bám sát mục tiêu, tiếp tục triển khai có hiệu quả 16 nhóm giải pháp về tái cơ cấu, ngay từ đầu năm Agribank còn xây dựng và tổ chức triển khai 7 nhóm giải pháp về hoạt động kinh doanh, 4 nhóm giải pháp quản trị điều hành.
Trong đó, tập trung hoàn thiện hệ thống cơ chế, quy trình nghiệp vụ đảm bảo an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật; tăng cường huy động vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng năng lực tài chính để nâng cao năng lực phục vụ nền kinh tế; tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý gắn với chuyển dịch cơ cấu tín dụng; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quan hệ dịch vụ với
Agribank...
Agribank và những ngân hàng có vốn nhà nước chi phối đã đề cập nhiều tới việc tăng vốn để nâng cao năng lực phục vụ nền kinh tế. Ông có thể cho biết câu chuyện này đang diễn ra như thế nào?
Những năm gần đây, các NHTM đã chủ động triển khai nhiều giải pháp tăng vốn, nâng cao năng lực tài chính để hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II, tuy nhiên kết quả còn hạn chế. Đến cuối năm 2018, tỷ lệ an toàn vốn của khối NHTM nhà nước cũng đã sát với mức tối thiểu. Thời gian từ nay đến năm 2020 không còn nhiều nên việc tăng vốn, đảm bảo tỷ lệ an toàn theo quy định nhằm tăng năng lực phục vụ nền kinh tế trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Đối với Agribank là NHTM có 100% vốn nhà nước chưa được cổ phần hóa nên việc tăng vốn dựa vào ngân sách là chính. Từ một ngân hàng dẫn đầu về vốn điều lệ, hiện nay Agribank có vốn điều lệ 30.500 tỷ đồng, thấp nhất trong nhóm "Big 4".
Với quy mô tài sản, nguồn vốn, đầu tư tín dụng đều trên 1 triệu tỷ đồng, dẫn đầu toàn hệ thống và thực hiện vai trò chủ đạo trong tín dụng nông nghiệp nông thôn, hàng năm tăng trưởng tín dụng từ 11 - 14% để đáp ứng nhu cầu vốn cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, từ cuối năm 2018, Nghị định 116 của Chính phủ về sửa đổi Nghị định 55 có hiệu lực đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng vay vốn không có tài sản đảm bảo, tuy nhiên lại là áp lực đối với Agribank khi tỷ trọng vay nông nghiệp nông thôn cao và phần lớn là cho vay không có tài sản bảo đảm dẫn đến quy mô tài sản có rủi ro tăng mạnh.
Mặc dù Agribank đã tích cực điều chỉnh cơ cấu tài sản, tiết giảm chi phí, gia tăng lợi nhuận để bổ sung vốn tự có nhưng tỷ lệ an toàn vốn tiếp tục giảm dần và tiệm cận mức tối thiểu theo quy định. Trong năm 2019, nếu không được sớm cấp bổ sung vốn điều lệ, Agribank sẽ gặp khó khăn trong việc tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn, hạn chế ngay đến khả năng tăng trưởng tín dụng và đáp ứng nhu cầu vốn vay của khách hàng.
Vì vậy, Agribank kính đề nghị Chính phủ và các cơ quan bộ ngành sớm có giải pháp tháo gỡ khó khăn, cấp bổ sung vốn điều lệ và cho phép Agribank phát hành trái phiếu dài hạn để tăng vốn tự có, tăng năng lực tài chính và khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Ông có thể cho biết kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ đầu năm 2019 đến nay?
Những tháng đầu năm 2019, hoạt động kinh doanh của Agribank tiếp tục tăng trưởng tốt, đến 30/4/2019, nguồn vốn huy động thị trường 1 đạt trên 1,2 triệu tỷ đồng; tăng trưởng tín dụng 3,2% so với đầu năm, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ, kịp thời cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất - kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; nợ xấu tiếp tục được kiểm soát có hiệu quả ở mức dưới 2%; kinh doanh dịch vụ được đẩy mạnh, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2018. Kết quả tài chính tiếp tục tăng, lợi nhuận trước thuế 4 tháng đầu năm đạt trên 4.000 tỷ đồng, gấp 1,5 lần 4 tháng đầu năm 2018.
Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của NHTM nhà nước với sứ mệnh phục vụ nông nghiệp nông thôn và nông dân là chính; thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về việc tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quan hệ dịch vụ với ngân hàng, năm 2019, Agribank đã tiếp tục giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, cân đối nguồn vốn hiệu quả, tiết giảm chi phí để giữ ổn định lãi suất cho vay từ nay đến cuối năm; hỗ trợ kịp thời nguồn vốn để thu mua lúa gạo, tháo gỡ khó khăn cho người chăn nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khôi phục sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, Agribank còn tiên phong triển khai các biện pháp nhằm góp phần hạn chế tín dụng đen: ban hành gói tín dụng quy mô 5.000 tỷ đồng để cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cấp bách của cá nhân, hộ gia đình với thủ tục vay vốn và thời gian cho vay được rút gọn; phối hợp với Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và các tổ chức chính trị xã hội khác đẩy mạnh cho vay qua 68.800 tổ nhóm với 1,5 triệu thành viên; triển khai 68 điểm kinh doanh lưu động bằng xe ô tô chuyên dùng hoạt động trên địa bàn 389 xã trong toàn quốc, kịp thời cung ứng các sản phẩm dịch vụ tới hàng triệu khách hàng ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa...
Nợ xấu của Agribank đang có chiều hướng tăng lên, ông nói gì về vấn đề này?
Thực tế cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn thường xuyên đối mặt với rủi ro thiên tai, dịch bệnh bất khả kháng, tình trạng được mùa rớt giá, chi phí hoạt động lớn và rủi ro cao. Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2019, khi một số khách hàng của Agribank phải gánh chịu những thiệt hại do giá lúa gạo giảm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, dịch sốt heo châu Phi và nhiều khách hàng vay vốn theo Nghị định 67 về phát triển thủy sản chậm trả nợ... dẫn đến nợ xấu ở một số chi nhánh có chiều hướng tăng nhẹ.
Với trên 70% dư nợ cho vay của Agribank dành cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, do vậy việc xử lý nợ xấu và kiểm soát hạn chế nợ xấu phát sinh, nâng cao chất lượng tín dụng luôn là nhiệm vụ trọng tâm và được Ban lãnh đạo Agribank quan tâm chỉ đạo. Bằng những biện pháp tổ chức quản lý chặt chẽ nợ xấu để có phương án xử lý kịp thời; phân công lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo, hỗ trợ chi nhánh trong việc xử lý nợ xấu và tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức, hệ thống cơ chế phù hợp với quy định Thông tư 13/2018/TT-NHNN... Trong những tháng đầu năm 2019, Agribank đã kiểm soát nợ xấu có hiệu quả ở mức dưới 2% và dự kiến sẽ hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Nhuệ Mẫn thực hiện
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Năm 2019 trên 43% khách hàng sử dụng điện thanh toán không dùng tiền mặt Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị trực thuộc đang tích cực tuyên truyền, vận động nhằm tăng gấp đôi số khách hàng sử dụng điện thanh toán không dùng tiền mặt tương ứng với tỷ lệ hơn 43%. Bớt cảnh nhân viên Điện lực đến nhà khách hàng thu tiền điện Hiện nay, Tập đoàn Điện lực Việt...