Xác ướp 2.400 năm tuổi được bảo quản tốt đến mức các nhà khoa học có thể lấy được dấu vân tay
Một trong những “thi thể đầm lầy” được bảo tồn tốt nhất trong lịch sử, Tollund Man được phát hiện với một chiếc thòng lọng quanh cổ, khiến các nhà nghiên cứu kết luận rằng anh ta là nạn nhân của lễ hiến tế con người.
Vào ngày 6 tháng 5 năm 1950, anh em Viggo và Emil Hojgaard đang khai thác than bùn trên bán đảo Jutland ở Đan Mạch thì tình cờ phát hiện ra một thi thể.
Họ ngay lập tức gọi cảnh sát vì nghĩ rằng họ đã tình cờ gặp một nạn nhân bị giết gần đây. Mặc dù những đặc điểm của thi thể này cho thấy anh ta đã chết gần đây, nhưng quần áo của thi thể này lại cho thấy điều ngược lại. Anh ta đội một chiếc mũ nhọn làm bằng da cừu và len cũng như một chiếc thòng lọng làm bằng da động vật bện vẫn quanh cổ. Da, tóc và móng tay của anh ta có màu nâu như da.
Người ta nhanh chóng xác định rằng đây không phải là nạn nhân bị giết gần đây mà thay vào đó là một thi thể trong đầm lầy – một xác chết được ướp xác tự nhiên và được bảo quản trong đầm lầy than bùn tới hàng nghìn năm.
Người đàn ông này được biết đến với cái tên Tollund Man theo tên ngôi làng Đan Mạch gần đó, và việc thi thể này được bảo quản rất tốt sau hai thiên niên kỷ vẫn còn gây sốc cho đến ngày nay.
Thi thể của Tollund Man có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Silkeborg ở Đan Mạch. Tuy nhiên, phần lớn thi thể đã khô héo do kỹ thuật bảo quản kém vào thời điểm phát hiện thi thể. Chỉ có đầu, bàn chân và ngón tay cái được giữ nguyên trạng thái ban đầu.
Việc xác định niên đại bằng carbon xác định rằng hài cốt của Tollund Man đã hơn 2.000 năm tuổi, có niên đại từ khoảng năm 405 đến 380 trước Công nguyên, trong Thời kỳ đồ sắt tiền La Mã ở Scandinavia. Người đàn ông được ước tính khoảng 40 tuổi khi chết – bị treo cổ.
Mặc dù có ý kiến cho rằng Tollund Man có thể đã bị xử tử vì anh ta là tội phạm, nhưng hầu hết các chuyên gia “có xu hướng đồng ý rằng việc giết anh ta là một loại nghi lễ hiến tế cho các vị thần”, theo thông tin từ Smithsonian.
Các đặc điểm trên khuôn mặt và các cơ quan nội tạng của Tollund Man, bao gồm cả tim, phổi và gan, được bảo quản tốt một cách đáng kinh ngạc, mặc dù da trên cánh tay và bàn tay của anh ta chỉ còn mô và xương cứng lại. Thi thể được đặt trong tư thế bào thai, nhắm mắt và miệng thả lỏng thành một nụ cười yếu ớt.
Tollund Man ở trong tình trạng tốt đến mức khi được phát hiện, các nhà khoa học có thể lấy dấu vân tay của anh ta. Ngay cả các cơ quan nội tạng của Tollund Man cũng được phát hiện ở tình trạng tốt và phân tích dạ dày cho thấy anh ta đã ăn bữa ăn cuối cùng trong khoảng thời gian từ 12 đến 24 giờ trước khi chết. Dựa vào thành phần, bữa ăn này có thể là một loại cháo được làm chủ yếu từ hạt lanh và lúa mạch.
Video đang HOT
Những thi thể đầm lầy như Tollund Man đã được tìm thấy trong các đầm lầy than bùn trên khắp Bắc Âu.
Phần lớn các thi thể đầm lầy như Tollund Man được khai quật ở Bắc Âu và có niên đại từ Thời đại Đồ đồng và Đồ sắt.
Theo tác giả Christian Fischer trong cuốn sách “Mummies, Disease and Ancient Culture”, người ta ước tính có 122 thi thể đầm lầy hoàn chỉnh đã được tìm thấy và có thể được xác định, mặc dù một số ước tính đưa ra con số lên tới 1.400.
Theo Smithsonian, gần như tất cả các thi thể trong đầm lầy được tìm thấy dường như đã bị giết trong một nghi lễ hiến tế hoặc trừng phạt nào đó. Theo giáo sư khảo cổ học và tác giả Peter Vilhelm Glob, các thi thể có thể đã được hiến tế cho nữ thần ngoại giáo Nerthus, còn được gọi là Mẹ Trái Đất, người gắn liền với hòa bình và thịnh vượng.
Những thi thể đầm lầy đầu tiên được ghi nhận đã được tìm thấy vào thế kỷ 17. Một được phát hiện ở Đức vào năm 1640, được cho là thi thể đầm lầy đầu tiên được phát hiện, và một người thợ cắt than bùn ở Bắc Ireland đã tìm thấy một xác ướp khác vào năm 1780, dẫn đến điều được cho là tài liệu được công bố đầu tiên về các thi thể đầm lầy.
Cho đến nay, thi thể đầm lầy lâu đời nhất được phát hiện được gọi là Koelbjerg Man, hài cốt của ông có niên đại khoảng 8.000 năm trước Công nguyên. Toàn bộ cơ thể của ông không được tìm thấy, chỉ có một hộp sọ và các mảnh xương, nhưng đây là bộ xương người lâu đời nhất từ trước đến nay được tìm thấy ở Đan Mạch.
Nhiều nhà sử học tin rằng nhiều thi thể trong đầm lầy này có thể có mối liên hệ với nhau. Giả thuyết này được củng cố khi phát hiện ra một thi thể đầm lầy khác cách nơi tìm thấy Tollund Man chỉ 260 feet (khoảng 80 mét).
Một đầm lầy than bùn trên Hill of Snowy Slack, Scotland.
Những thi thể đầm lầy như Tollund Man thường được cho là “được ướp xác tự nhiên” do các thi thể được bảo quản một cách đáng kinh ngạc bởi các yếu tố tự nhiên.
Nước trong các mỏ than bùn có tính axit cao do nằm gần các vùng nước mặn lạnh, chẳng hạn như Biển Bắc của Scandinavia. Hàm lượng muối cao cho phép rêu than bùn phát triển tự do trong đầm lầy và khi rêu thối rữa, nó sẽ giải phóng một lượng axit đáng kể vào đầm lầy.
Theo Bảo tàng Silkeborg, nước trong những đầm lầy này có độ pH gần như cân bằng với giấm, khiến bất kỳ hài cốt nào của con người còn sót lại trong đầm lầy đều được bảo quản theo cách tương tự như rau củ được ngâm trong giấm – Axit ngăn chặn vi khuẩn phát triển mạnh, có thể khiến thi thể bị hư hỏng và phân hủy.
Tất cả các thi thể trong đầm lầy đều được đặt trong nước vào mùa đông, khi nhiệt độ nước thấp hơn 4 độ C. Những nhiệt độ này tương tự như nhiệt độ của tủ lạnh và ngăn chặn vi khuẩn phát triển.
Tollund Man được bảo quản cực kỳ tốt nhờ điều kiện môi trường của đầm lầy.
Những mỏ đồng huyền thoại của Vua Solomon
Gần đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng mới về sự tồn tại của một xã hội tiên tiến dưới thời Vua Solomon trong Kinh thánh.
Ở Thung lũng Timna, phía Nam Israel hiện đại, giữa vùng đất hoang nắng cháy, dường như chẳng có gì ngoài những tảng đá im lặng, nếu quan sát kỹ, có thể phát hiện ra bằng chứng về sự hiện diện của con người cổ đại: những vết xước trên đá hóa ra là chữ tượng hình từ hơn 3.000 năm trước, còn hang đá là một đường hầm được đục bằng đồng từ nhiều thiên niên kỷ trước.
Thung lũng bị bỏ quên
Khi nhà khảo cổ học người Israel Erez Ben-Yosef từ Đại học Tel Aviv đến các mỏ đồng cổ ở Thung lũng Timna vào năm 2009, nơi không đặc biệt thu hút các nhà khảo cổ học, ông mới 30 tuổi. Ben Yosef lúc đó không quan tâm đến Kinh Thánh chút nào, lĩnh vực hoạt động của ông là nghiên cứu những thay đổi trong từ trường Trái đất. Ông và nhóm chuyên gia rất quan tâm đến sự gia tăng từ trường bí ẩn vào thế kỷ X trước Công nguyên (TCN) nên đến đây để khám phá.
Trước đó, người Anh cai trị Timna vào những năm 1930. Vào thời điểm đó, nhà khảo cổ học người Mỹ Nelson Gluck đã đến đây cùng một đoàn thám hiểm. Người dẫn đường cho họ là Sheikh Odeh ibn Jad, thủ lĩnh của người Bedouin địa phương, ông gọi đây là mỏ đồng lớn nhất và giàu có nhất ở Arập, kim loại này đã được khai thác và nấu chảy từ nhiều thiên niên kỷ trước. Ở đây cũng tìm thấy những món ăn có niên đại từ thiên niên kỷ trước. Đây là thời kỳ huyền thoại về triều đại của các vị vua vinh quang nhất trong Kinh thánh: David và Solomon.
Vua Solomon - tác giả 2 cuốn "Kinh Cựu ước" - giàu có nhờ những mỏ đồng.
Cựu Ước của Kinh Thánh mô tả vua Solomon là người giàu nhất thế giới vào thời điểm đó, ông xây dựng đền thờ Chúa, trang trí vô cùng lộng lẫy bằng kim loại quý, đặc biệt là đồng được khai thác và nấu chảy tại các mỏ này. Sự giàu có và trí tuệ của Vua Solomon là huyền thoại: Chúa hứa ban cho ông một trí tuệ vĩ đại vì ông đã không đòi hỏi những phần thưởng tư lợi như cuộc sống trường thọ hoặc cái chết của kẻ thù. Câu chuyện nổi tiếng nhất chính là Phán quyết của Solomon: có hai người phụ nữ đều khẳng định mình là mẹ của cùng một đứa trẻ và Solomon giải quyết tranh chấp bằng cách ra lệnh xẻ đôi đứa trẻ để chia cho cả hai. Một người lập tức từ bỏ tranh chấp, chứng tỏ rằng cô thà từ bỏ con mình còn hơn nhìn thấy nó bị giết chết. Solomon tuyên bố rằng người phụ nữ ấy, người đã tỏ lòng trắc ẩn chính là mẹ của đứa trẻ. Gluck vô cùng ấn tượng trước những khám phá đã truyền cảm hứng cho ông.
Một nhà nghiên cứu khác là Rotenberg, đi nghiên cứu "khu mỏ của Vua Solomon" và đã khám phá ra hết mê cung vô tận của các mỏ đồng cổ xưa. Sau đó, họ bắt đầu khai quật những tảng đá được gọi là Trụ cột của Solomon và bất ngờ phát hiện ra một ngôi đền Ai Cập. Vào thời điểm những năm 1960, việc tìm kiếm sự bác bỏ không chỉ những câu chuyện trong Kinh thánh mà còn cả sự tồn tại của các vị vua David và Solomon đã trở thành mốt, vì vậy, việc phát hiện ra ngôi đền Ai Cập cổ đại tại địa điểm này đã làm giới khoa học vô cùng hài lòng. Một thế hệ các nhà khảo cổ và sử học bắt đầu tranh luận rằng người Israel thời đó chẳng khác gì những bộ tộc Bedouin man rợ. Solomon và David cha ông, nếu có tồn tại, chỉ đơn giản là những người lãnh đạo của một trong những bộ tộc này.
Là một nhà khoa học hoàn toàn vô tư, Erez Ben-Yosef với khám phá năm 2009 về các mỏ cổ một lần nữa làm đảo lộn lịch sử thời kỳ cuối Đồ Đồng đầu Đồ Sắt. Khi mỏ đang hoạt động, người Ai Cập không có mặt ở đây. Nhà khoa học và đội ngũ chuyên gia tìm thấy tàn tích quần áo của công nhân, lạc đà của họ và thậm chí cả hóa thạch từ 3.000 năm tuổi, việc xác định niên đại cho thấy rõ đây là thời của David và Solomon.
Các nhà khảo cổ tiến hành khai quật ở vùng lân cận Timna và tình cờ tìm thấy những khu mỏ cổ, những mỏ này đều là đồng.
Mỏ đồng của vua Solomon ở Timna
Dấu tích của ngành công nghiệp đồng phát triển mạnh mẽ từ thời cổ đại này nằm rải rác khắp khu vực xung quanh. Bằng chứng cho điều này là xỉ đen, sản phẩm phụ của quá trình nấu chảy đồng. Trong bối cảnh thời kỳ đó, đồng là động lực kinh tế mạnh mẽ, giống như dầu thô ngày nay. Đó là nguồn tài nguyên thiết yếu cần thiết để chế tạo công cụ và vũ khí, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử loài người.
Tổ tiên của chúng ta, thông qua một quá trình sử dụng nhiều lao động, đã biến quặng đồng thành kim loại nguyên chất thông qua quá trình nấu chảy. Sau khi khai thác xong, đồng phải được tách ra khỏi gangue. Để làm được điều này, quặng phải được nung nóng đến nhiệt độ đáng kinh ngạc là 1.000 độ C. Lò luyện kim cần phải liên tục đỏ lửa dưới thùng chứa quặng. Để làm điều này, người thợ thổi ngọn lửa qua một chiếc ống đặc biệt - đó là công việc khó khăn và một quá trình rất dài mới đem lại kim loại nguyên chất đồng nghĩa với sức mạnh và sự giàu có.
Sau đó người Israel đến đây. Các nhà khoa học cũng đã vén bức màn bí mật về nguồn gốc của người Edomite. Theo Kinh thánh, đây là một dân tộc có nguồn gốc từ anh trai của tộc trưởng Isaac, Esau. Các cuộc khai quật đã phát hiện ra phần còn lại của các khu định cư, gia súc, tài sản khác và các văn bản cổ có đề cập đến những người này. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy xương cá ở đây. Thật kỳ lạ, vì nó cách biển Địa Trung Hải gần 200 km. Các món ngon như đậu lăng, hạnh nhân, nho được mang từ phương xa về cũng được phát hiện. Khám phá thú vị nhất là phát hiện ra những mảnh mô nhỏ màu đỏ và xanh. Các nhà khoa học coi họ thuộc tầng lớp quý tộc La Mã. Phân tích cho thấy niên đại khoảng 1.000 năm TCN, khi đó Rome chỉ là một ngôi làng đơn giản.
Sau đó, người ta đã tìm thấy một số mẫu len màu hồng nhạt. Khi họ kiểm tra, kết quả thật đáng ngạc nhiên: hóa ra nó chẳng có gì hơn ngoài màu tím hoàng gia. Đó là loại thuốc nhuộm đắt nhất trong thế giới cổ đại, chỉ có các vị vua mới mặc quần áo nhuộm màu này. Nếu ai vẫn coi người Israel cổ đại là những người du mục đơn giản thì đã đến lúc xem xét lại quan điểm của họ.
Ở Timna, các thợ mỏ đã chiết xuất đồng từ các mạch malachite và chalcocite. Các mỏ sa thạch khắp thung lũng và dưới lòng đất vẫn còn được nhìn thấy cho đến ngày nay.
Đóng góp đầy khiêu khích của Ben-Yosef
Các nhà khảo cổ học thường làm việc với những đồ vật đã tồn tại hàng thế kỷ hoặc thiên niên kỷ. Một nhà khảo cổ học phải có trí tưởng tượng phát triển đáng kể, có thể nhìn thấy những tòa nhà hùng vĩ trong đống đổ nát. Trước hết, đây luôn là những tòa nhà bằng đá và đồ gia dụng. Công trình càng vĩ đại thì xã hội càng phát triển. Nhiều trường phái khảo cổ học khác nhau đã tranh luận gay gắt về việc liệu một vương quốc Israel thống nhất có tồn tại hay không. Điều duy nhất họ đồng ý với nhau là vấn đề có hay không có các tòa nhà. Ben-Yosef tin rằng thật không công bằng khi đánh giá nền văn minh theo cách này. Ông dẫn ra ví dụ về một hệ thống xã hội giống như hệ thống của người Mông Cổ. Họ là những người du mục, nhưng điều này không ngăn cản họ chinh phục một nửa thế giới.
Một phần xã hội Israel có thể sống tốt trong lều, đây chính xác là cách Kinh thánh viết về nó: không có đề cập đến những ngôi nhà bằng đá vào thời điểm này, xã hội những người chăn cừu một phần là du mục. Họ dựng lều khi cần thiết và di chuyển theo mùa. Kinh thánh kể rằng khi dân Israel cử hành lễ cung hiến Đền thờ của Solomon, họ đã vui vẻ đi về lều của mình.
Một điều nữa là các mỏ đồng được phát triển khá tích cực và rất nhiều bằng chứng về sự phát triển của chúng đã được lưu giữ. Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Israel Aren Meir từ Đại học Bar-Ilan đã dẫn đầu các cuộc khai quật ở thành phố Gath của người Philistine trong một phần tư thế kỷ. Theo Kinh thánh, đây là quê hương của dũng sĩ Goliath. Ông nói rằng những khám phá của Ben-Yosef đã chứng minh một cách thuyết phục rằng một dân tộc du mục có thể đạt được trình độ tổ chức chính trị và xã hội cao. Mair cũng đồng ý với mô tả của Ben-Yosef về xã hội này giống như người dân Edom. Cho đến thời điểm đó, các nhà khoa học vẫn chưa quan tâm đúng mức đến những người du mục và quan tâm quá mức đến kiến trúc.
Thomas Levy thuộc Đại học California, San Diego, nhà khảo cổ học dẫn đầu cuộc khai quật ở Faynan, cho biết: các cuộc khai quật tại Timna đã tiết lộ một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh quan công nghiệp thời đồ sắt trải rộng trên hàng trăm km2. Levi thừa nhận rằng phát hiện này chứng minh những câu chuyện trong Kinh thánh về một vương quốc thống nhất của người Israel phát triển và giàu có. Ông nói rằng đây là điều mà các nhà khoa học không những không mong đợi tìm thấy.
Khám phá của Ben-Yosef không phải là một lập luận cứng rắn ủng hộ hay chống lại tính chính xác về mặt lịch sử của Kinh Thánh. Timna là một dị thường bộc lộ giới hạn của những gì một người được phép biết, nó chỉ khiến ta suy nghĩ về sự thật mà mọi người vẫn thường tin...
Ghi hình "quái thú" đầu chó, chân nhện trong rừng Amazon, nhiếp ảnh gia bị cư dân mạng đòi tới tận nhà "Quái thú" kỳ lạ có cái đầu giống chó, chân giống nhện được tìm thấy trong rừng Amazon khiến nhiều người bối rối. Vào năm 2017, nhiếp ảnh gia Andreas Kay quyết định vào rừng Amazon để chụp ảnh các sinh vật. Tình cờ, trong lúc đang đi dạo trong rừng, Andreas Kay đã ghi được hình ảnh của một con "quái thú"...