World Bank cảnh báo rủi ro từ thị trường nợ toàn cầu
Trong báo cáo mới nhất của mình về bối cảnh nền kinh tế thế giới trong năm 2020, Ngân hàng Thế giới ( World Bank) đã dành cả một chương để nói về rủi ro đến từ việc thị trường nợ đang được tích lũy nhanh chóng.
Theo báo cáo này, trong vòng 50 năm qua, đã có tới 4 làn sóng tích lũy nợ lớn trên toàn cầu, lần 1 vào 1970-1989, lần 2 diễn ra từ 1990-2001 và lần thứ 3 diễn ra từ 2002-2009. Lần thứ 4 hiện đang diễn ra đã bắt đầu từ năm 2010.
Theo số liệu của World Bank, tổng nợ tích lũy toàn cầu trong đợt tích lũy nợ này đã tăng lên mức cao mới, tương đương với 230% của GDP toàn cầu vào năm 2018.
Trong đó, tổng nợ tích lũy đến từ các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế phát triển cũng đã đạt đến mức cao nhất lịch sử – 170% GDP, tăng 54% so với thời điểm 2010.
Đây cũng là làn sóng tích lũy nợ có quy mô lớn nhất, tốc độ tích lũy lớn nhất và độ phủ rộng nhất trong 4 làn sóng tích lũy diễn ra trong 50 năm qua.
Làn sóng tích lũy nợ lần thứ 4 được cho là có nhiều điểm tương đồng với 3 lần trước. Thứ nhất, chúng đều bắt đầu trong thời kỳ lãi suất được duy trì ở mức thấp. Thứ hai, đây cũng là thời kỳ chứng kiến nhiều sự cải tiến về tài chính và sự thay đổi cấu trúc thị trường.
Hai điều này đã tạo điều kiện và khuyến khích việc vay nợ. Tuy nhiên, cả 3 làn sóng tích nợ trước đây đều kết thúc bằng cuộc khủng hoản tài chính quy mô lớn và thường trùng hợp với thời điểm nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại hoặc suy thoái. Do đó, World Bank tỏ ra lo ngại trước nguy cơ khủng hoảng thị trường nợ toàn cầu.
World Bank cho rằng việc lãi suất được duy trì ở mức thấp và được kỳ vọng sẽ tiếp tục được giữ ở mức thấp về trung hạn sẽ giúp giảm thiểu một phần những rủi ro liên quan đến việc nợ tích lũy đang dần tăng lên.
Video đang HOT
Tuy nhiên, điều này là không đủ để có thể ngăn chặn khủng hoảng có thể xảy ra, và trong trường hợp điều này xảy ra thì các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ chịu tác động tiêu cực nhất do nợ tích lũy tại các nền kinh tế này đang ở mức rất cao.
World Bank đưa ra 4 khuyến nghị chính để có thể giảm thiểu rủi ro khủng hoảng nợ xảy ra và giảm thiểu tác động (nếu điều xảy ra).
Thứ nhất, các quốc gia phải duy trì hệ thống quản lý nợ hợp lý và minh bạch. Thứ hai, cần phải có khung chính sách tiền tệ, tài khóa và tỷ giá hối đoái tốt để có thể tăng tính chịu đựng của nền kinh tế trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang trở nên mong manh. Thứ ba, thiết lập hệ thống kiểm soát và giám sát thị trường tài chính thật chặt chẽ để có thể sớm nhận diện và có thành động kịp thời xử lý rủi ro. Cuối cùng, cần phải có chính hệ thống quản lý tài chính công hiệu quả và có những chính sách để khuyến khích quản trị doanh nghiệp tốt nhằm sử dụng vốn vay nợ một cách hiệu quả.
Ngân Giang
Theo vietnamnet.vn
"Bom nợ" từ các nền kinh tế đang phát triển
Ngân hàng thế giới (WB) cảnh báo, vay nợ của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã lên mức kỉ lục 55.000 tỉ USD.
Vay nợ của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã lên mức kỉ lục 55.000 tỉ USD.
"Quả bom nợ" mới
Theo báo cáo của WB, đây là mức vay nợ lớn nhất, nhanh nhất và có qui mô ảnh hưởng rộng lớn trong gần 5 thập kỉ qua. Khoản nợ này khiến các quốc gia dễ bị tổn thương và có thể rơi vào khủng hoảng tài chính nếu thời kỳ lãi suất thấp chấm dứt.
Cụ thể, trong báo cáo đánh giá về 4 giai đoạn tích tụ nợ nần từ năm 1970 đến nay, các chuyên gia của WB đã chỉ ra tỉ lệ nợ so với GDP của các nước đang phát triển đã tăng từ 54% lên 168% kể từ khi việc tích lũy nợ bắt đầu vào năm 2010. Trong đó ba giai đoạn gia tăng nợ trước đây đều kết thúc bằng các cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước đang phát triển.
Khối nợ khổng lồ này bao gồm nợ công của các chính phủ, nợ doanh nghiệp và nợ của các cá nhân, hộ gia đình. Trong đó, một phần lớn trong số nợ này có nguồn gốc từ chương trình vay nợ của các nước nhằm vực dậy nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.
Đồng thời, phần lớn khối nợ này (22.000 tỉ đô la) đến từ Trung Quố khi tỷ lệ nợ trên GDP của quốc gia này đã tăng 72 điểm % kể từ năm 2010 lên mức 255% vào năm ngoái do nền kinh tế đang chững lại với tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong gần ba thập kỷ qua, buộc Bắc Kinh phải thắt chặt dòng chảy ngân sách để đối phó với vấn đề nợ công.
Đồng thời, Trung Quốc cũng là nước vay nợ lớn nhất trong các nền kinh tế đang phát triển nhưng nước này cũng là chủ nợ lớn của nhiều nước nghèo khác. Các nước đang phát triển có xu hướng thích vay từ Trung Quốc vì điều kiện vay dễ dàng hơn cùng chi phí vay nợ thấp. Tuy nhiên, khi cho vay, Trung Quốc thường áp các điều khoản yêu cầu không được tiết lộ thông tin và các yêu cầu thế chấp tài sản khác.
Chính vì vậy, bà Ceyla Pazarbaiolu, phó chủ tịch phụ trách phát triển bình đẳng, tài chính và các tổ chức của WB, nhận định, trong quá khứ, các khoản vay nợ lớn tăng vọt thường đi cùng với các cuộc khủng hoảng tài chính tại các nước đang phát triển và gây ra thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế.
Mặc dù nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc là cách dễ dàng nhất để thoát nợ, song điều này không phải lúc nào cũng sớm diễn ra. Trên thực tế, nhiều quốc gia đang phải vật lộn với mức tăng trưởng kinh tế thấp nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính đến nay. Một loạt các lựa chọn về cách vực dậy nền kinh tế của nhiều nước lúc này đều có một mẫu số chung: Tiếp tục vay thêm!
Đồng thời, các khoản nợ của các quốc gia phần lớn là vay bên ngoài và thường được vay bằng ngoại tệ đã làm giảm giá trị đồng tiền quốc gia. Điều này có thể làm tình hình nợ xấu đi đáng kể. Cùng với đó, nhiều nước đang phát triển vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, giá của những loại hàng hóa này thường không ổn định do cuộc chiến thương mại gia tăng và có xu hướng kéo dài.
Có thể thấy, vấn đề nợ gia tăng cùng nhiều tổn thương khác như mức thâm hụt tài khoản vãng lai gia tăng, nguồn thu thuế thấp, trốn thuế tràn lan...có thể dẫn đến các cuộc khủng hoảng nợ trong tương lai nếu các nhà hoạch định chính sách không nhanh chóng hành động để củng cố tính ổn định trong vay nợ và giảm nguy cơ rơi vào những cú sốc kinh tế.
Cần cẩn trọng
Hiện nay, nợ công của Việt Nam đã giảm gần 8 điêm % GDP so với năm 2016. Điều này nhờ Chính phủ nỗ lực đạt được nhiều thành tựu trong duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững. Cùng với tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát ổn định, thu ngân sách nhà nước đạt và vượt dự toán; chi ngân sách tiết kiệm, hiệu quả; bội chi và nợ công giảm mạnh.
Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, thời gian qua ngành tài chính đã nỗ lực trong cơ cấu lại nợ công. Nợ công chủ yếu là trái phiếu Chính phủ vay trong nước, giai đoạn trước vay nước ngoài chiếm hơn 60%/GDP, nhưng nay chỉ còn 39%/GDP và vay trong nước là 61%/GDP.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, mặc dù tỷ lệ nợ công so với GDP đã có xu hướng giảm, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, còn một số vấn đề thực tế đặt ra có tác động đến sự an toàn của nợ công tại Việt Nam.
Ngoài ra, nghĩa vụ trả nợ của ngân sách đang ngày càng tăng làm gia tăng áp lực trả nợ trong thời gian tới khi nhiều khoản vay trong nước cơ bản sẽ đến hạn sau 5 năm vay; một số khoản vay ODA, kể cả có lãi và không lãi cũng đến hạn phải trả nợ gốc vào năm 2020.
Chính vì vậy, trong năm 2020, Việt Nam cần có chính sách cân đối giữa quản lí để giảm nợ và nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng để hiện thực hóa các tiềm năng kinh tế. Bên cạnh đó, cần quan sát và theo dõi những biến động của nền kinh tế toàn cầu để có những chính sách điều chỉnh kịp thời.
Cẩm Anh
Theo Enternews.vn
Triển vọng tín nhiệm Việt Nam có đáng ở mức Ba3? Việc giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba3, điều chỉnh triển vọng xuống tiêu cực (negative) như thông báo của Moody's có vẻ đã bỏ qua nhiều yếu tố tích cực... Moody's Investors Service (Moody's) thông báo giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba3 đối với các khoản phát...