WB: Chế tạo, chế biến và bán lẻ Việt Nam bật tăng mạnh khi quy định giãn cách xã hội được nới lỏng
Nền kinh tế Việt Nam phản ứng nhanh ngay sau khi những biện pháp giãn cách xã hội trong nước được nới lỏng trong tháng 5, với mức tăng 10% trong ngành chế tạo, chế biến và doanh số bán lẻ.
Ảnh: GettyImages
Trong tháng 5, doanh số bán lẻ và hoạt động chế tạo chế biến trong nước đã có dấu hiệu hồi phục, tăng khoảng 10% so với tháng 4 nhưng vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Sức cầu ngoài nước yếu đi, thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu và dòng vốn FDI giảm nhẹ (so cùng kỳ năm trước).
Ở mức khoảng 10% (so cùng kỳ năm trước), tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế hiện đã cao hơn khoảng ba lần so với tăng trưởng GDP trong bốn tháng đầu năm 2020, theo chủ trương nới lỏng chính sách tiền tệ từng bước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trong tháng 4, thu ngân sách của Chính phủ mới chỉ đạt khoảng 65% so với cùng kỳ năm trước, do tăng trưởng kinh tế chững lại và các biện pháp giãn giảm thuế mới ban hành.
Đến đầu tháng 7, các cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố các số liệu quan trọng về GDP cho quý hai và 6 tháng đầu năm 2020. Việt Nam đã bước sang ngày thứ 45 không có ca nhiễm COVID-19 mới trong cộng đồng.
Tính đến ngày 31/05/2020, có 328 người bị nhiễm vi-rút (tất cả các ca mới đều là người Việt Nam ở nước ngoài hồi hương), trong đó 279 ca đã được xuất viện, tương đương với tỷ lệ khỏi bệnh khoảng 85%. Hiện chưa có ca tử vong nào được ghi nhận
Sau khi bị ảnh hưởng bởi giãn cách xã hội gần như tuyệt đối khắp toàn quốc trong tháng 4, chỉ số sản xuất công nghiệp (IPP) tháng 5 bật tăng 11% so với tháng 4, nhưng vẫn thấp hơn khoảng 3% so với tháng 5/2019.
Video đang HOT
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng khoảng 5% trong tháng 5 so với tháng 4, nhưng vẫn thấp hơn 5,5% với cùng kỳ năm trước, do sức cầu bên ngoài yếu đi và có thể do một số gián đoạn trong các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng lao động chủ chốt của Việt Nam như may mặc và giày da giảm 14% và 5% (so cùng kỳ năm trước) trong khi các mặt hàng xuất khẩu công nghệ, như điện thoại thông minh, giảm 9% (so cùng kỳ năm trước).
Trong tháng 5, kim ngạch nhập khẩu giảm gần 6% (so cùng kỳ năm trước), phản ánh giá dầu thô giảm, nhu cầu đầu vào nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước chững lại.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục đổ vào Việt Nam trong tháng 5 nhưng với tốc độ chậm hơn so với báo cáo cho tháng 4. Trong năm tháng đầu năm 2020, tổng giá trị FDI cam kết lên đến 13,9 tỷ USD – vẫn ở mức cao nhưng thấp hơn 17% so với cùng kỳ năm trước.
Tín dụng phân bổ cho nền kinh tế ước tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước trong bốn tháng đầu năm 2020. Mặc dù mức tăng trưởng trên vẫn chưa bằng năm trước đó, nhưng hiện đang cao hơn ba lần so với tăng trưởng GDP trong cùng kỳ.
Chênh lệch trên phản ánh chính sách nới lỏng tiền tệ và tín dụng nhằm ứng phó khủng hoảng COVID.
Vào thời điểm giữa tháng 5, NHNN cắt giảm ba mức lãi suất chính (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chào mua giấy tờ có giá và lãi suất chiết khấu) ở mức 50 điểm cơ bản mỗi mức. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng cũng giảm từ 6% xuống 5,5%, còn trần lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng được giảm 0,3-0,5 điểm phần trăm, tùy theo kỳ hạn.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI trong tháng 5 ít biến động, nhờ đó tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ năm trước chỉ ở mức 2,4%, thấp hơn so với mức 2,9% trong tháng 4 và 6,4% trong tháng 1 năm 2020. Giá cả chững lại chủ yếu do sức cầu lương thực thực phẩm trong nước giảm đà, giá dầu thô giảm thấp kỷ lục trên thị trường quốc tế, gây hiệu ứng lan truyền đến giá xăng dầu trong nước.
Tổng thu ngân sách của Chính phủ trong bốn tháng đầu năm giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Giảm thu lớn nhất được ghi nhận cho thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, ở mức lần lượt 9,3% và 7,3%. Do suy giảm trong hoạt động xuất nhập khẩu, số thu từ thuế liên quan đến xuất nhập khẩu giảm 19% (so cùng kỳ năm trước).
Thu nội địa còn giảm mạnh hơn vào tháng 4, khi thu ngân sách cho Nhà nước giảm gần 25% so với tháng trước, chỉ bằng 65% so với tháng 4 năm 2019. Tổng cục Thuế đã nhận được 90.000 đơn xin giãn nộp thuế và tiền sử dụng đất, với tổng giá trị lên đến 26,2 ngàn tỷ đồng.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam phản ứng nhanh ngay sau khi những biện pháp giãn cách xã hội trong nước được nới lỏng trong tháng 5, với mức tăng 10% trong ngành chế tạo, chế biến và doanh số bán lẻ.
Nhưng hoạt động kinh tế vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước COVID. Khu vực doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu bị ảnh hưởng do sức cầu trên toàn cầu yếu đi. Trong khi đó, Chính phủ tiếp tục sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để bù đắp cho tác động tài chính của khủng hoảng vi-rút cô-rô-na, dẫn đến tín dụng ngân hàng trong nước tăng trưởng cao và số thu ngân sách sụt giảm nghiêm trọng.
Số liệu GDP quý dự kiến được công bố đầu tháng 7 sẽ giúp theo dõi tốt hơn quỹ đạo kinh tế của Việt Nam, nhưng cho dù số liệu như thế nào, chúng ta vẫn cần lưu ý hơn đến khả năng tác động đến lạm phát do nới lỏng tiền tệ và bội chi tăng cao do thu từ thuế chưa hoàn thành chỉ tiêu.
CEO Vinatex: Dệt may sẽ tiếp tục thiếu hàng dù Covid-19 được kiểm soát
Việc cần làm ngay tại thời điểm này là tập trung đàm phán với các nhà cung cấp để chuyển nguồn cung nguyên phụ liệu về Việt Nam như Uniqlo, H&M, Zara... đáp ứng được yêu cầu xuất xứ và hưởng lợi thuế quan từ Hiệp định EVFTA, ông Nguyễn Tiến Trường - Tổng Giám đốc Vinatex cho hay.
Trong thời gian tới đây, dịch bệnh có thể kết thúc nhưng hành vi tiêu dùng của thế giới sẽ có nhiều biến chuyển. Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) xác định, khả năng cầu thị trường quay về mức trước đại dịch là khó có thể xảy ra. Trước mắt, khi dịch bệnh được kiểm soát và nhu cầu về các sản phẩm y tế không còn, thì ngành dệt may sẽ tiếp tục rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng.
"Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm 2020 có thể giảm tới 20% so với năm 2019. Vì vậy, việc cần làm ngay tại thời điểm này là tập trung đàm phán với các nhà cung cấp để chuyển nguồn cung nguyên phụ liệu về Việt Nam như Uniqlo, H&M, Zara... đáp ứng được yêu cầu xuất xứ và hưởng lợi thuế quan từ Hiệp định EVFTA; bắt đầu làm các đơn hàng thử nghiệm với quy mô nhỏ nhưng đòi hỏi yêu cầu cao hơn về chất lượng", ông Nguyễn Tiến Trường - Tổng Giám đốc Vinatex cho hay.
Tập đoàn chủ trương tiếp tục sản xuất các mặt hàng khẩu trang, quần áo bảo hộ y tế trong quý 2 để tận dụng nhu cầu tại các thị trường nước ngoài hiện đang được dự báo vẫn ở mức cao. Điều quan trọng nhất, đó là toàn bộ hệ thống Vinatex phải duy trì trạng thái sẵn sàng hoạt động bình thường với công suất cao ngay khi thị trường có dấu hiệu phục hồi.
Sau dịch, dệt may có thể phục hồi sớm chung với nhóm hàng thiết yếu
Tiếp tục nhận định về hành vi tiêu dùng của khách hàng sau dịch, Vinatex cho rằng hàng hoá dệt may chưa nằm ở mức thiết yếu cao như thực phẩm, thuốc men, các thiết bị bảo vệ con người... nhưng cũng thuộc nhóm các sản phẩm có nhu cầu thiết yếu. Chính vì vậy, sau khi đại dịch Covid-19 đi qua cũng sẽ là một trong các nhóm hàng hoá có thể phục hồi sớm.
Có thể nói, thời gian 5 tháng chống dịch và giãn cách xã hội vừa qua, thậm chí cách ly, chưa thể làm thay đổi các yếu tố văn hoá, tầng lớp xã hội, nhóm ảnh hưởng... Dựa trên mô hình của Kotler cho thấy 3 yếu tố chính sau có bị ảnh hưởng và sẽ có vai trò dẫn dắt quá trình phục hồi nhu cầu đó là: (1) Hoàn cảnh kinh tế, (2) Nhận thức và (3) Niềm tin và Thái độ.
Trong đó hoàn cảnh kinh tế sẽ có vai trò quan trọng nhất với nhóm khách hàng đang gặp khó khăn về việc làm, kể cả khi còn đang được nhận trợ cấp xã hội thì họ cũng không có khả năng đáp ứng các nhu cầu như khi có việc làm. Chính vì vậy, nhu cầu trang phục với họ là tối thiểu, hàng basic như quần áo denim, áo dệt kim, áo jacket 2-3 lớp thay cho suite, sơ mi, quần âu. Các mặt hàng cơ bản, giá rẻ sẽ phục hồi trước và chiếm tỷ lệ bán chính trong quý 3-4/2020. Khả năng phục hồi các mặt hàng cao cấp phụ thuộc vào tiến trình tạo việc làm mới tại EU và Mỹ, nếu phục hồi tốt có thể hy vọng sự phục hồi mặt hàng cấp trung trở lên vào lễ Giáng sinh 2020.
Chi tiêu xa xỉ giảm mạnh, tổng cầu thế giới sẽ không tăng trong 3-4 năm tới
Tiếp theo đó là ảnh hưởng của nhận thức. Qua thời gian cách ly, con người có dịp xem xét lại toàn bộ quá trình sống, chi tiêu, sử dụng các sản phẩm... và không ít người trong số đó sẽ phát hiện ra dường như mình tiêu dùng quá "lãng phí". Đây sẽ là nguyên nhân dẫn đến hiệu chỉnh nhu cầu sau dịch. Nếu điều này diễn ra trên diện rộng thì tổng cầu thế giới sẽ không tăng so với 2019 trong 3-4 năm tới vì nhận thức và hành động mang tính tiết kiệm của người tiêu dùng. Dự báo ảnh hưởng này sẽ dẫn tới nhu cầu 2020 giảm khoảng 20%, năm 2021 vẫn thấp hơn giao dịch của năm 2019 10% và đến năm 2022 cầu mới tương ứng mức giao dịch năm 2019.
Thứ 3 là niềm tin và thái độ của người tiêu dùng, cảm giác không an toàn sẽ còn đè nặng lên tâm lý tiêu dùng trong ít nhất 5 năm tới. Tỷ lệ tiết kiệm sẽ cao hơn so với trước kia sẽ là nguyên nhân chính dẫn dắt tổng cầu hàng hoá cơ bản như dệt may bước vào giai đoạn trầm lắng, không tăng trưởng. Về thái độ tiêu dùng cũng sẽ hướng tới gần hơn các sản phẩm bảo vệ môi trường, nhất là sau khi giãn cách xã hội, người ta thấy rõ sự cải thiện về chất lượng không khí và sự lành lại của lỗ thủng tầng ozone. Xu thế thay thế rất nhanh các sản phẩm không tái chế được, sản xuất bằng công nghệ không sạch trong thời gian khoảng 5 năm tới.
Ngoài các yếu tố trong hành vi tiêu dùng thì yếu tố sắp xếp lại chuỗi cung ứng với khả năng các quốc gia phát triển kéo ngành dệt may về trong nước, vừa đảm bảo tỷ lệ an toàn không đứt gãy chuỗi như vừa qua, vừa tạo việc làm trong nước sẽ có thể là một xu thế mới.
Tóm lại, nhu cầu sẽ có phục hồi từ quý 3/2020, bắt đầu bằng việc phục hồi các sản phẩm cơ bản, giá trung bình thấp và thấp. Các doanh nghiệp có vị trí tốt hơn trong chuỗi cung ứng sẽ có đơn hàng trước. Tuy vậy, khả năng tổng cầu thế giới 2020 của dệt may vẫn giảm 20 - 25%. Các năm tiếp theo, tiến trình hồi phục sẽ gắn liền với tỷ lệ có việc làm ở Mỹ và EU. Xu thế sản phẩm xanh, tỷ lệ tiêu dùng ít đi sau khi xem xét lại hành vi mua sắm của người tiêu dùng sẽ là chủ đạo, dẫn hướng thị trường dệt may thế giới.
Đã miễn giảm, hạ lãi suất với hơn 1,08 triệu tỷ đồng Số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến nay, các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho 260.000 khách hàng với dư nợ trên 1,08 triệu tỷ đồng. Số liệu được lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước thông tin tại Hội nghị tăng cường triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh...