Vụ “bầu” Kiên: Điều tra việc nhận gửi tiền vượt trần tại ngân hàng
Cơ quan điều tra đã tách vụ án ACB ủy thác gửi tiền để điều tra về việc nhận gửi tiền vượt trần tại một số ngân hàng.
ảnh minh họa
Đại diện Viện Kiểm sát tối cao cho biết nội dung này trong chiều nay (10/12), khi các luật sư, bị cáo và đại diện Viện Kiểm sát tại tòa tranh luận về các hành vi của các bị cáo trong vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm được qui kết tại bản án sơ thẩm.
Về hành vi cố ý làm trái liên quan đến việc ủy thác cho các nhân viên ACB gửi tiền tại NH khác, sau khi viện dẫn các văn bản pháp luật, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, bản thân việc các NH mang tiền huy động từ khách hàng mang tiền đi gửi lòng vòng không thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. “Việc ACB ủy thác cho nhân viên mang tiền đi gửi là chủ trương trái luật. Việc nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này phải tuân theo Luật TCTD chứ không thể theo Luật dân sự. Trong luật dân sự cũng không có chế định ủy thác, mà chỉ có ủy quyền. Chủ trương ủy thác cá nhân đi gửi tiền là sai tính đến thời điểm ban hành nghị quyết dừng thực hiện ủy thác. VKS cho rằng, hành vi ủy thác cá nhân gửi 718 tỷ đồng là trái qui định của Luật TCTD năm 2010. Luật này qui định TCTD không được kinh doanh bất kỳ lĩnh vực khác. TCTD chỉ được kinh doanh những lĩnh vực được NHNN cho phép. Hiểu rộng hơn, trong hoạt động của TCTD không được phép làm những gì luật pháp không cấm mà chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép. Xem xét kỹ thì thấy trong các tài liệu không có qui định nào TCTD được ủy thác cho cá nhân gửi tiền sang TCTD khác.
Ý kiến của các luật sư, bị cáo cho rằng, không có hậu quả xảy ra, vì Vietinbank có trách nhiệm phải quản lý và trả lại tiền gửi cho khách hàng. Viện Kiểm sát cho rằng, hành vi ủy thác là trái qui định về quản lý kinh tế của Nhà nước. Đến nay số tiền này chưa thu hồi được. Bản thân ACB không giao dịch tại Vietinbank nên không có quyền khởi kiện, đòi tiền tại Viettinbank. Hậu quả hành vi làm trái đã rõ.
Ý kiến cho rằng nghị quyết này không gây thiệt hại mà làm lợi cho ACB hơn 1.000 tỷ, VKS cho rằng không chính xác. Việc ủy thác vi phạm quy định về trần lãi suất, và cơ quan điều tra cũng tách vụ án để điều tra về việc nhận gửi tiền vượt trần tại một số ngân hàng. Căn cứ hồ sơ vụ án, tại thời điểm đó ACB có các lựa chọn khác, ví dụ hạ lãi suất huy động để giảm lãi suất cho vay chứ không phải chỉ có giải pháp duy nhất là gửi tiền ở NH khác.
Xung quanh hành vi của các bị cáo về ủy thác gửi tiền, bị cáo Kiên nói năm 2008 đã rút khỏi HĐQT chỉ là tư vấn, không tham gia việc quyết định ủy thác gửi tiền, VKS thấy, bị cáo có ảnh hưởng lớn đến quyết định hoạt động của ACB và các bị cáo khác đều khẳng định vai trò của bị cáo khi ACB quyết định ủy thác cho nhân viên mang tiền đi gửi.
“Liên quan Nghị quyết ngày 22/3/2010 của Thường trực HĐQT, bị cáo Kiên dù không có thẩm quyền ban hành Nghị quyết này, nhưng các bị cáo khác khẳng định vai trò của Kiên trong việc đồng ý ủy quyền cho các cá nhân mang tiền đi gửi ở các TCTD khác” – đại diện Viện Kiểm sát nhấn mạnh.
Về trường hợp của bị cáo Huỳnh Quang Tuấn, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, án sơ thẩm dùng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo Tuấn là chưa chính xác, kháng cáo của bị cáo là đúng đề nghị HĐXX xem xét.
Liên quan đến quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, hành vi ủy thác gửi tiền đã gây hậu quả, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp cho rằng: “Hậu quả của hoạt động ủy thác đi gửi tiền là chưa thỏa đáng. Cứ cho rằng, Huyền Như chiếm đoạt thì đây là nợ đã có chủ. Còn nhiều tài sản của Như đã bị kê biên, sau này sổ tiền này có thể thu về”.
Sau phần ý kiến của Viện Kiểm sát và luật sư, bị cáo Lý xuân Hải xin có một số câu hỏi mong muốn đại diện Viện Kiểm sát làm rõ: Việc ủy thác, trước thời điểm 1/1/2010 thì thanh tra NHNN và Cơ quan công an đều khẳng định không vi phạm thì chúng tôi làm là đúng. Còn sau đó, chúng tôi vẫn tiếp tục làm làm mới là sai. Đến thời điểm này, Viện Kiểm sát nói là có hậu quả là chưa thỏa đáng, vì bản án sơ thẩm xử Huỳnh Thị Huyền Như chưa có hiệu lực.
Video đang HOT
Bị cáo Lý Xuân Hải cũng đề nghị được làm rõ trách nhiệm cá nhân bị cáo liên quan đến việc ra nghị quyết về mua cổ phiếu, còn “để mua cổ phiếu của ACB” theo bị cáo chỉ là suy luận. Bởi lẽ, chỉ đến thời điểm 30/6, khi gặp đại diện Công ty kiểm toán, bị cáo Hải mới biết được thông tin ACBS mua cổ phiếu ACB.
“Đây không phải đơn giản là 8 năm tù mà còn là danh dự của tôi. Tôi không thể chịu trách nhiệm về việc tôi không làm” – bị cáo Hải trần tình.
Phần tranh luận của Luật sư Vũ Xuân Nam (bào chữa cho bị cáo Kiên) dường như gây “mệt mỏi” cho những người dự phiên tòa. Đại diện VKS và HĐXX đã đề nghị luật sư nên “nói gọn lại”. Đại diện VKS đề nghị luật sư đưa ra các nội dung cụ thể cần tranh luận. Bị cáo Nguyễn Đức Kiên cũng đề nghị “anh Nam tạm nghỉ để tôi bổ sung ý kiến. Còn tôi có gì thiếu sót anh Nam sẽ bổ sung”. Tuy nhiên, Luật sư Vũ Xuân Nam không đồng tình với đề xuất này của thân chủ mà tiếp tục phần bào chữa.
Ngày mai, phiên tòa tiếp tục làm việc./.
Vũ Hạnh
Theo_VOV
Phúc thẩm "bầu" Kiên: Viện Kiểm sát đối đáp phần tranh tụng
Đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, cả 4 tội danh Nguyễn Đức Kiên bị cáo buộc ở tòa sơ thẩm đều có căn cứ pháp luật.
Cuối phiên làm việc sáng nay (10/12), Đại diện Viện Kiểm sát đã có đối đáp phần tranh tụng sau khi nghe quan điểm của các luật sư và các bị cáo tự bào chữa.
Trước tiên Viện Kiểm sát đồng tình với quan điểm của một số luật sư về phương pháp tiếp cận vụ án, đó là phải lấy bản án sơ thẩm làm trọng tâm để làm kháng cáo. Vì thế, Viện Kiểm sát lấy các ý kiến, lời khai đều được xem xét trong bản kết luận vụ án. Về nhận xét của một số luật sư cho rằng, Viện Kiểm sát không cập nhật diễn biến vụ án là chưa chính xác.
Phần tranh tụng, Viện Kiểm sát nêu quan điểm với từng tội danh của bị cáo Nguyễn Đức Kiên.
Về tội kinh doanh trái phép, bị cáo Kiên tiếp tục đưa ra các khái niệm trong Luật DN, Luật đầu tư, Quyết định 165, để khẳng định hành vi góp vốn mua cổ phiếu, cổ phần là không phải đăng ký kinh doanh.
Viện Kiểm sát cùng quan điểm với bị cáo về công văn số 6388 của Bộ KH-ĐT về khái niệm kinh doanh. Theo đó, kinh doanh là việc thực hiện liên tục 1 số hoặc toàn bộ công đoạn của quá trình đầu tư, phải có 3 tiêu chí: được thực hiện liên tục; nhằm mục đích sinh lợi; hoạt động đầu tư thông qua giao dịch nhằm mục đích sinh lợi là hoạt động kinh doanh.
Cụ thể: Việc 5 công ty của bị cáo Nguyễn Đức Kiên góp vốn mua cổ phần là hoạt động liên tục nhằm mục đích sinh lời, như vậy có căn cứ để khẳng định đây là hành vi kinh doanh.
Tại công văn 935 của Tổng cục thống kê về hệ thống ngành kinh tế Việt Nam 2007, thì hoạt động mua cổ phần, cổ phiếu được xếp vào mã 64990. Trong khi đó, 5 công ty mà bị cáo thực hiện kinh doanh có mã ngành 64990 nhưng không có đăng ký kinh doanh là vi phạm pháp luật.
Đối với Công ty Thiên Nam, DN này được đăng ký năm 1995, thay đổi lần thứ 7 vào năm 2000. Theo qui định của pháp luật, trường hợp thay đổi người đại diện pháp luật thì phải thay đổi đăng ký kinh doanh mới, giấy đăng ký kinh doanh cũ phải nộp lại cho cơ quan cấp phép kinh doanh.
Về hoạt động mua bán tại hợp đồng 017 bị quy kết kinh doanh trái phép: Bị cáo vẫn cho rằng việc kinh doanh trạng thái vàng là mua bán hàng hóa không phạm pháp luật. Viện Kiểm sát đặt câu hỏi: Hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của Thiên Nam có trên giấy chứng nhận của Thiên Nam hay không? Đây là hoạt động mua bán, tại điều 2 của hợp đồng có ghi: bên A và bên B đồng ý mua bán trạng thái vàng, nhưng điều 5 của hợp đồng này có nói tới phí giao dịch. Phí giao dịch chỉ có khi ACB là trung gian giao dịch, càng khẳng định Thiên Nam đã kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài.
Tại hợp đồng, có nội dung mua bán trạng thái vàng có thể chuyển đổi thành vàng vật chất, nguyên liệu, như vậy không thể coi là hoạt động phái sinh.
Do đó, hoạt động của Thiên Nam chịu sự điều chỉnh của Quyết định số 03 của NHNN. Hoạt động kinh doanh vàng trạng thái được xếp vào mã 46624, như vậy Thiên Nam đã kinh doanh mà không có đăng ký kinh doanh.
Bị cáo Kiên là người đặt lệnh qua điện thoại, đứng ra giao dịch. Viện Kiểm sát khẳng định, bị cáo Kiên bị cáo buộc kinh doanh trái phép tại Thiên Nam là có cơ sở.
Bị cáo Kiên cho rằng, một số DN khác cũng hoạt động như vậy mà không bị truy cứu, VKS thấy điều này không nằm trong phạm vi của vụ án.
"Với các phân tích trên, án sơ thẩm quy kết bị cáo tội kinh doanh trái phép là có căn cứ" - đại diện Viện Kiểm sát nhấn mạnh.
Về tội Trốn thuế, theo Viện Kiểm sát trích dẫn, có 3 hợp đồng: Hợp đồng số 01 ngày 25/12 của bà Lan ký với ACB, hợp đồng số 010109 giữa bà Nguyễn Thúy Hương và Công ty B Phụ lục hợp đồng ký giữa 3 bên gồm bà Nguyễn Thúy Hương, Nguyễn Đức Kiên và Công ty B&B.
Về nội dung này, Viện Kiểm sát tranh tụng 3 vấn đề: Thứ nhất, Viện Kiểm sát đặt nghi vấn 2 hợp đồng và 1 phụ lục hợp đồng trên có phải ký lùi thời gian, có phù hợp quy định pháp luật không? Mặc dù phụ lục hợp đồng ký giữa 3 bên, chưa có căn cứ để khẳng định đã bị ký lùi.
Tuy nhiên, theo đại diện Viện Kiểm sát, vi phạm pháp luật tại các hợp đồng này thể hiện như sau: Tại phụ lục hợp đồng, bị cáo Kiên là người đại diện pháp luật của B&B lại nhận ủy thác của bà Hương, đã vi phạm điều 144 khoản 5 về phạm vi đại diện ủy quyền. Như vậy xác lập đại diện ủy quyền của bà Hương cho bị cáo Kiên là vi phạm pháp luật. Mặt khác, quá trình ủy thác tại BB, bà Hương khai: "Tôi (tức Hương) chỉ phụ trách công tác văn thư, quản lý con dấu. Nguyễn Đức Kiên là người hoạch định, quyết định thực hiện. Theo hợp đồng, tôi không phải đặt cọc, và anh Kiên đặt lệnh trực tiếp".
Còn bà Đặng Ngọc Lan (vợ bầu Kiên) khai "Không phải là người đại diện pháp luật của B&B, do anh Kiên đi công tác nên anh Kiên đã ký giấy ủy quyền. Về việc ủy thác kinh doanh vàng tôi không hiểu biết gì nhiều mà chỉ ký chứng từ. Khi thấy lỗ nhiều tôi hỏi thì anh Kiên bảo việc kinh doanh để anh và Hương giải quyết".
Bà Nguyễn Thúy Hương và Đặng Ngọc Lan tiếp tục xác nhận lời khai trên tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức Kiên đã khai: Các giấy tờ tài liệu vợ tôi và Hương ký theo yêu cầu của tôi. Như vậy, Kiên đã chỉ đạo ký hợp đồng ủy quyền, và sử dụng giấy tờ không hợp pháp để xác định số thuế phải nộp là vi phạm pháp luật.
Bị cáo Kiên nhiều lần nhắc lại rằng, bị cáo không có ý định trốn thuế, và bà Nguyễn Thúy Hương được hưởng chính sách miễn thuế. Về nội dung xét thấy của cáo trạng, có nội dung bị cáo biết trước việc miễn thuế. Bị cáo Kiên đã khai sau khi nghe báo cáo của kế toán, vì biết Nghị quyết 32 chưa được áp dụng thực hiện, nên tại thời điểm đó đã không trích nộp thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, Viện Kiểm sát thống nhất không đưa nội dung này vào tranh tụng.
Về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo Trần Ngọc Thanh đại diện ACI ký với Công ty TNHH một thành viên thép Hòa Phát. Tại điểm 1 của hợp đồng này, Cty ACI cam kết đảm bảo số cổ phần được chuyển nhượng thuộc sở hữu hợp pháp của ACI, chưa chuyển nhượng và không có tranh chấp.
Đến ngày 27/6, Hòa Phát đã chuyển vào tài khoản của ACI và ACI đã chi hết số tiền nhưng vẫn không thực hiện việc giải chấp. Ngày 7/9/2012, Cơ quan điều tra có công văn số 497 yêu cầu ACB chuyển lại số tiền 264 tỷ đồng, nhưng ACI chỉ còn 53 tỷ đồng.
Lãnh đạo ACB cũng có quyết định không đồng ý giải chấp cổ phần của ACI.
Đến ngày 17/9/2012, Cơ quan điều tra - Bộ Công an mới ra quyết định về việc khởi tố bổ sung tội lừa đảo.
Luật sư của bị cáo và bị cáo cho rằng việc khởi tố xuất phát từ cơ quan điều tra là không chính xác. Trong trường hợp cụ thể, Cơ quan điều tra có quyền khởi tố khi phát hiện hành vi phạm tội.
Bị cáo Kiên trong quá trình điều tra đã có đơn khắc phục hậu quả, nhưng trong phiên tòa bị cáo không xác nhận đơn của mình./.
Vũ Hạnh
Theo_VOV
Nguyễn Đức Kiên tiết lộ thông tin không có trong tài liệu Sáng nay (10/12), phiên tòa phúc thẩm vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng phạmtiếp tục diễn ra. Ngày thứ 9, bị cáo Nguyễn Đức Kiên và các bị cáo khác tiếp tục bào chữa về tội lừa đảo, trốn thuế. Bắt đầu vào phần bào chữa, bị cáo Kiên nói: Hoạt động của ACB là minh bạch, dân chủ, công khai, quyền...