Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 5)
Theo lời khai của Patrice, cô chống lại kẻ h.ãm h.iếp mình nhưng trên người nạn nhân không hề có dấu hiệu xây xước (ảnh minh họa)
Những tranh cãi quyết liệt về pháp lý không có hồi kết giữa các phiên tòa.
Những bất đồng và tranh cãi
Luật sư Moore phản đối việc sử dụng bản tự thú của Ernest làm bằng chứng trước tòa vì trước và đang khi nhận tội và viết ra bản này, nghi can không được gặp luật sư bào chữa.
Để bảo vệ cho việc phản đối của mình, luật sư cao t.uổi này đã đề cập tới một vụ án trước đó. Trước đó, Thẩm phán Gideon v. Wainwright trong một phiên tòa đã không chấp nhận việc bị cáo không có luật sư bào chữa khi bị bắt giữ và thẩm vấn mà ông yêu cầu người bị bắt giữ phải được có luật sư bào chữa trong suốt quá trình từ khi bắt giữ, thẩm vấn tới các phiên xét xử.
Tuy nhiên, thẩm phán tối cao Yale McFate đã không chấp nhận phản đối của Moore và cho phép bản nhận tội đó được đọc trước bồi thẩm đoàn.
Dầu vậy, trong suốt phiên xử, thẩm phán McFate nhấn mạnh rằng dù ông chấp nhận sử dụng bản nhận tội này là bằng chứng trước tòa nhưng các thành viên bồi thẩm đoàn có thể bác bỏ bằng chứng này nếu họ thấy bị cáo bị cưỡng chế viết.
Bồi thẩm đoàn phải mất rất lâu để quyết định. 2 tuần sau, Ernest cũng bị kết án có tội bắt cóc và h.iếp d.âm và phải lĩnh mức án 30 năm tù.
Kháng cáo
Luật sư Moore tin rằng thẩm phán McFate đã phạm sai lầm khi cho phép sử dụng bản nhận tội này làm bằng chứng tại tòa. Ông cho rằng nếu không vì tờ giấy bị cáo bị ép buộc phải viết đó, mọi chuyện đã hoàn toàn khác. Mọi yếu tố và diễn biến của vụ án không được thực hiện đúng. Đặc biệt, khi vị luật sư bào chữa này yêu cầu nạn nhân của vụ h.ãm h.iếp diễn tả lại những hành động chống lại thủ phạm lúc đó, hoặc có dấu vết gì thể hiện việc chống cự hay không thì cô gái này lại không nói rõ được.
Video đang HOT
Luật sư Alvin Moore đã ngay lập tức làm đơn kháng cáo lên tòa án tối cao Arizona.
“Liệu bản nhận tội của Ernest là do anh tự do viết hay bị ép buộc?” Câu hỏi này luôn khiến viên luật sư tận tâm và vô vị lợi này đau đầu. Đặc biệt, bị cáo đã được bắt giữ, thẩm tra và ghi nhận lời khai có đúng quy trình và thủ tục hay không? Anh có được hưởng các quyền do Hiến pháp Hoa Kỳ quy định hay hoàn toàn bị sự chủ quan của 1 số cảnh sát chi phối vì Ernest có sơ yếu lý lịch không mấy tốt đẹp từ khi mồ côi mẹ và bỏ nhà đi lang thang.
Năm 1965, tòa án tối cao Arizona đưa ra xem xét bản kháng cáo vụ án h.iếp d.âm của Ernest Miranda và cân nhắc lại quyền của những bị cáo trong quá trình điều tra và xét xử. Luật sư Moore đã khẳng định rằng một nghi can phải có quyền có luật sư khi bị cảnh sát thẩm vấn như trong vụ án Escobedo xảy ra trước đó. Trong vụ án Escobedo, tòa đã phán quyết rằng việc cảnh sát không còn tiếp tục điều tra về một vụ án chưa giải quyết được, lại tập trung vào một nghi can cụ thể, từ chối không cho phép nghi can mời luật sư và không giải thích rõ cho bị can biết quyền được giữ im lặng thì cảnh sát đã vi phạm đạo luật số 6.
Tuy nhiên, sau 18 tháng xét xử, tòa án tối cao Arizona vẫn đồng ý với bản án sơ thẩm, tuyên Ernest Miranda có tội bắt cóc và h.iếp d.âm.
Phiên phúc thẩm này đã chỉ trích những quyết định của vụ án Escobedo như sau dù vẫn tuyên phạt như án sơ thẩm:
- Một cuộc điều tra chỉ tập trung vào một nghi phạm cụ thể
- Nghi phạm đang bị giam giữ
- Nghi phạm đã yêu cầu nhưng bị từ chối gặp luật sư
- Nghi phạm không được thông báo một cách hiệu quả về quyền được giữ im lặng của mình.
Chính cựu thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, thống đốc tiểu bang Arizona là Ernest W. McFarland đã tập trung vào quyết định của mình dựa trên thực tế rằng Miranda đã không yêu cầu luật sư trong suốt thời gian bị bắt giam và vì thế không được hưởng sự bảo vệ như ở vụ Escobedo. Ông tin rằng Ernest Miranda đã viết bản nhận tội hoàn toàn tự nguyện và các phiên tòa trước đã không phạm sai lầm gì khi sử dụng bản nhận tội đó làm bằng chứng.
Cảnh sát cũng đã hành động đúng khi lập luận rằng sau những lần phạm tội, bị bắt và bị án tù, Ernest Miranda đã hiểu được những quyền cần thiết và cơ bản của mình. Vì thế, lần này tuy cảnh sát bỏ qua không thông báo cho anh này biết quyền và không làm theo quy trình nhưng những yếu tố đó không làm thay đổi bản chất của vụ án.
Vậy là cấp sơ thẩm và phúc thẩm trong vụ án này trái ngược với quyết định của phiên tòa Escobedo trước đó. Không chỉ có những quyết định khác nhau giữa các phiên tòa cấp liên bang nhưng còn có sự bất đồng giữa các phiên tòa cấp tiểu bang. Rõ ràng là tòa án tối cao phải xem lại vụ Escobedo để làm rõ tình hình.
Theo 24h
Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 3)
Các nghi can được đ.ánh số để nạn nhân nhận diện.
Cuộc đời đầy tội phạm của nghi can khiến CS "mặc định" kết quả điều tra?
Tóm tắt cuộc đời phạm tội
Khi Ernest Miranda đi với cảnh sát về trụ sở, đây không phải là lần đầu tiên người này bị bắt. Ngay từ hồi đang học phổ thông, Ernest đã gặp nhiều khó khăn ở Mesa, Arizona sau khi mẹ của hắn qua đời và cha tái hôn. Ernest và cha tính tình không hòa hợp với nhau và cậu bé cũng giữ khoảng cách với cha cũng như với mẹ kế. Ngay từ khi học lớp 8, Ernest liên tục trốn học và đã phạm luật hình sự lần đầu tiên. Sau đó, cậu học trò mồ côi mẹ bị bắt vì tội ăn cắp, kết án một năm giam giữ ở trường cải tạo thiếu niên.
Năm 1956, một tháng sau khi rời khỏi trường cải tạo thiếu niên Arizona, Ernest đi bộ về nhà trong đêm. Tình cờ, hắn nhìn thấy một người phụ nữ đang k.hỏa t.hân nằm trong phòng khách của nhà để xem tivi. Đối với cậu nhóc ngỗ nghịch và hay phạm lỗi, đặc biệt vừa rời khỏi trường cải tạo như Ernest, đây là một "lời mời" khó bỏ qua. Cậu nhóc mở chiếc cửa không khóa và vào nhà, cố gắng quan hệ với người phụ nữ đó nhưng không được. Tuy nhiên, cậu nhóc vẫn nằm trên giường với người phụ nữ đó cho tới khi người chồng về nhà và gọi cảnh sát. Ernest Miranda bị bắt lại và chịu thêm một năm "tù giam" nữa.
Ernest thấy rằng cần thay đổi môi trường sống mới có thể "cải tà quy chính" được nên sau khi được "ra tù", cậu nhóc phiêu dạt về Tây Los Angeles. Tuy nhiên, cuộc sống không gia đình và người thân đã khiến anh chàng bị bắt lại trong vòng vài tháng sau vì bị nghi liên quan tới vụ cướp có vũ trang và c.ưỡng h.iếp phụ nữ. Ernest bị tạm giam hai tháng để cảnh sát điều tra về vụ cướp, h.iếp, chính quyền thấy rằng người dân California sẽ tốt hơn nếu không có Ernest Miranda nên hắn bị kết án 18 năm, trả lại trường cải tạo Arizona.
Với hồ sơ phạm tội nhiều như thế, lại thêm yếu tố không nghề nghiệp, không gia đình, Ernest chỉ còn có con đường duy nhất mà không phải phạm tội, đó là gia nhập quân đội.
Nhưng cũng thật không may, sau 15 tháng phục vụ trong quân đội, Ernest phải buộc gặp gỡ bác sỹ tâm lý và lại bị sa thải một cách nhục nhã.
Ernest lại phải chịu cảnh lang thang, phiêu bạt quanh khu vực phía Nam một vài tháng, dành một khoảng thời gian ngắn... trong nhà tù bang Texas vì vô gia cư, bị bắt ở Nashville vì lái xe ăn cắp. Vì không phải là thủ phạm trộm cắp mà chỉ là sử dụng đồ ăn cắp, Ernest bị phạt tù 1 năm 1 ngày trong hệ thống nhà tù liên bang, từ nhà tù ở Chillicothe, Ohio tới Lompoc, bang California.
Ra tù, con người khốn khổ ấy tiếp tục tồn tại với một vài công việc bình thường như khuân vác hàng xuất khẩu trong một nhà máy sản xuất hàng hóa ở Phoenix trong vòng 2 năm. Viên quản đốc rất hài lòng và nói với chính quyền địa phương rằng Ernest là một trong những công nhân chăm chỉ nhất ở đây. Mọi việc tưởng như dần ổn định thì Ernest lại bị bắt vì là nghi can liên quan tới vụ h.iếp d.âm Patrice McGees.
"Anh có quyền giữ im lặng"
Sĩ quan cảnh sát Carroll Cooley và Wilfred Young cùng nhau tới trước cửa nhà nơi Ernest Miranda đang sống cùng người vợ không đăng ký của mình. 2 người có chung một cậu bé còn người vợ có 1 cô con gái riêng với người chồng mà cô này không thể ly dị. Khi cảnh sát tới, Ernest đang ngủ trên giường sau một giờ làm việc vất vả tại nhà máy nơi anh đang làm việc.
Cô vợ hờ, Twila Hoffman, hơi ngạc nhiên về cuộc viếng thăm bất ngờ của cảnh sát nhưng vẫn nhẹ nhàng đ.ánh thức chồng dậy.
Cooley yêu cầu Ernest Miranda đi cùng mình để trả lời những nghi vấn anh này cướp, h.iếp Patrice McGee.
"Chúng tôi không muốn nói chuyện trước mặt vợ của anh ta", Cooley sau này cho biết.
Đây là một trong những nghệ thuật của cảnh sát. Họ không bao giờ thẩm vấn nghi can tại một nơi quen thuộc của người bị cáo buộc. Thẩm vấn là một cuộc chiến căng thẳng về tâm lý và trí tuệ giữa bị can và người cảnh sát. Và dĩ nhiên, cảnh sát bao giờ cũng chiếm lợi thế vì họ có kinh nghiệm và được chọn lựa địa điểm mình muốn. Chính vì điều này mà Cooley muốn đưa Ernest ra ngoài thẩm vấn.
Nếu thẩm vấn tại văn phòng của cảnh sát, nghi can sẽ bị thân cô thế cô và điều tra viên sẽ có được mọi lợi thế. Họ sẽ dễ dàng điều khiển được mọi việc theo tư duy chủ quan của mình mà không bị phạm luật.
Tại thời điểm bị mời về đồn cảnh sát, Ernest không hề biết điều gì đang diễn ra. "Tôi không biết là tôi có quyền gì, và có được lựa chọn hay không. Tôi vào xe của họ và hỏi điều gì đang diễn ra. Họ chỉ nói rằng: Anh có quyền giữ im lặng", Ernest Miranda sau này cho biết.
Theo 24h