Việt Nam: Điểm đến của dòng vốn ngoại
Trong xu hướng nhà đầu tư rút vốn khỏi các thị trường mới nổi, thị trường cận biên thì Việt Nam vẫn là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài với FII vào ròng 6 tháng đầu năm 2019 đạt 1,28 tỷ USD.
Sự ổn định của nền kinh tế cùng những nỗ lực hoàn thiện chính sách phát triển thị trường của cơ quan quản lý đã giúp chứng khoán Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực về tốc độ phát triển và đang là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn nước ngoài.
Liên tục mua ròng
Ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông tin, trong bối cảnh tình hình tài chính, chứng khoán toàn cầu biến động mạnh, xu hướng nhà đầu tư rút vốn khỏi các thị trường mới nổi, thị trường cận biên thì Việt Nam vẫn là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài với giá trị vốn gián tiếp (FII) vào ròng 6 tháng đầu năm 2019 đạt 1,28 tỷ USD.
Trước đó, từ năm 2016 – 2018, vốn FII liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán ở mức khá cao, trung bình 1,98 tỷ USD/năm.
Phó Giám đốc Tư vấn và Phân tích Đầu tư Khách hàng Tổ chức, Công ty cổ phần Chứng khoán SSI, ông Phạm Lưu Hưng cho biết, các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam thường quan tâm đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế nói chung cũng như cổ phiếu nói riêng; quy mô của thị trường cả về giá trị vốn hóa cũng như thanh khoản giao dịch, tỷ lệ sở hữu nước ngoài.
Nói một cách đơn giản, họ quan tâm tới các cổ phiếu có vốn hóa lớn, có tiềm năng tăng trưởng, có số cổ phiếu lưu hành tự do cao và nhà đầu tư nước ngoài có thể mua được.
Ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Ảnh: Văn Giáp/BNEWS/TTXVN
Theo Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Trần Văn Dũng, thị trường chứng khoán Việt Nam đã không ngừng tăng trưởng về quy mô và thanh khoản với tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường cổ phiếu tính đến hết tháng 6/2019 đạt khoảng 4,3 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 78% GDP của năm 2018, tăng 11,2% so với đầu năm 2019.
Sau 19 năm vận hành, thị trường chứng khoán về cơ bản đã hoàn thiện về mặt cấu trúc (cổ phiếu, trái phiếu, phái sinh), đa dạng hóa về sản phẩm (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, phái sinh và gần nhất là chứng quyền có bảo đảm vừa mới vận hành).
Nhiều năm qua, thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là một điểm sáng trong khu vực về tốc độ phát triển cũng như điểm đến hấp dẫn của dòng vốn nước ngoài.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã được Tổ chức FTSE Russell đưa vào danh sách xem xét nâng hạng từ cận biên lên thị trường mới nổi hạng hai. Có thể nói, thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ phát triển nhanh về lượng mà đã có sự chuyển dịch rõ rệt về chất, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Trần Văn Dũng nhận định.
Lực đẩy từ chính sách
Theo ông Trần Văn Dũng, cùng với sự phát triển ổn định của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, Chính phủ Việt Nam tiếp tục nỗ lực trong việc hoàn thiện chính sách phát triển thị trường chứng khoán, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi cũng đã được trình Quốc hội cho ý kiến, với nhiều điểm mới được bổ sung, sửa đổi theo hướng hoàn thiện chính sách để thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ và bền vững.
Tháng 3/2019, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025″ nhằm mục tiêu tiếp tục cơ cấu lại toàn diện để thị trường chứng khoán trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế cũng như tăng cường mở cửa và hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.
Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng đang tích cực triển khai các giải pháp chính sách về nâng hạng thị trường từ cận biên lên mới nổi theo tiêu chuẩn của Công ty cung cấp các công cụ phân tích danh mục và chỉ số chứng khoán toàn cầu MSCI, có trụ sở tại New York (Mỹ).
Cùng với các chính sách vĩ mô, Chính phủ cũng đã và đang tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước gắn với việc niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán. Việc xem xét nâng hạng từ cận biên lên thị trường mới nổi hạng hai cũng là cơ hội riêng có đầy tiềm năng của thị trường chứng khoán Việt Nam trong mắt nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Trần Văn Dũng, với lợi thế, tiềm năng của thị trường chứng khoán Việt Nam, cùng xu thế hội nhập tài chính và xu hướng dịch chuyển dòng vốn toàn cầu, dòng tiền thông minh sẽ luôn tìm tới những thị trường giàu cơ hội.
Ông Dũng cho rằng, khi đưa được tiềm năng, cơ hội của thị trường vốn Việt Nam đến gần hơn tới nhà đầu tư nước ngoài và trao đổi, giải đáp được những băn khoăn của họ thì các nguồn vốn đầu tư có chất lượng vào Việt Nam sẽ tăng; các tiêu chí cả về định lượng và định tính của các tổ chức như MSCI hay FTSE Russell sẽ sớm được đáp ứng.
Tuy nhiên, ông Phạm Lưu Hưng, Phó Giám đốc Tư vấn và Phân tích Đầu tư Khách hàng Tổ chức – Công ty cổ phần Chứng khoán SSI chỉ ra một số khó khăn trong thu hút vốn ngoại. Đó là trong 1 – 2 năm gần đây, các diễn biến trên thị trường chứng khoán tỏ ra không thuận lợi, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm lại, hoạt động IPO (bán cổ phần lần đầu ra công chúng), thoái vốn cũng chậm hơn so với dự kiến và có một số trường hợp khiến nhà đầu tư nước ngoài thất vọng sau khi bị thua lỗ khi tham gia các đợt IPO, thoái vốn trong giai đoạn đầu năm 2018.
Nhà đầu tư chứng khoán. Ảnh: Văn Giáp/BNEWS/TTXVN
Video đang HOT
Theo vị chuyên gia này, để có thể thu hút được dòng vốn nước ngoài, điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước vốn rất chậm chạp trong thời gian gần đây. Hoạt động IPO, thoái vốn phải được triển khai trở lại và ít nhất phải có một số doanh nghiệp nhà nước lớn thực hiện cổ phần hóa ngay trong nửa cuối năm 2019.
Về cơ chế chính sách, hiện nay các thông tin liên quan đến việc nới lỏng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong Luật Chứng khoán còn khá chung chung (chủ yếu giao lại cho Chính phủ ban hành quy định chi tiết nên nếu các quy định được sửa đổi hơn và được thông qua vào kỳ họp Quốc hội cuối năm 2019 thì có thể tạo thêm động lực cho các nhà đầu tư.
Đánh giá về tác động của hệ thống pháp luật, ông Đỗ Bảo Ngọc – Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Chứng khoán Kiến thiết Việt Nam nhìn nhận, trong câu chuyện thu hút vốn ngoại, Chính phủ đã đặt ra vấn đề sửa Luật Chứng khoán; trong đó mở room tối đa cho nhà đầu tư nước ngoài (số cổ phần tối đa mà nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu) ở những ngành nghề kinh doanh không bị hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy vậy, ông Ngọc cho rằng, thị trường chứng khoán Việt Nam cần cải thiện quy mô, nhiều doanh nghiệp lớn vẫn chưa niêm yết trên sàn chứng khoán.
“Nói là kỳ vọng, nhưng việc chậm trễ cổ phần hóa khiến nhà đầu tư “hơi” thất vọng”, ông Ngọc trăn trở.
Ông Ngọc cũng cho rằng, đối với một thị trường xếp ở hạng cận biên như Việt Nam thì điều quan trọng là phải cải thiện tính minh bạch, yếu tố về pháp lý, công bố thông tin và chuẩn mực kế toán.
Những vấn đề như quy chế công bố thông tin bằng ngôn ngữ nước ngoài đã được Chính phủ rất quan tâm. Cơ quan quản lý cũng bổ sung nhiều hàng hóa, dịch vụ như quyền chọn, phái sinh, chứng quyền để nâng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Những vấn đề này, cơ quan quản lý đã nhìn ra và đang trong quá trình cải thiện, nhưng cần có thời gian.
“Luật Chứng khoán sửa đổi cần được Quốc hội thông qua, các nghị định ban hành dưới luật để hướng dẫn thi hành cũng cần có thời gian chỉnh lý. Trong 1 năm tới, tôi tin rằng, việc chuẩn bị sẽ được thực hiện rốt ráo, chắc chắn cơ hội nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam vào năm 2020 – 2021 là khả thi”, ông Ngọc nói./.
Văn Giáp/BNEWS/TTXVN
Nới room ngoại cho Fintech
Theo các chuyên gia, việc đưa ra giới hạn sở hữu nước ngoài hợp lý tại các công ty Fintech là cần thiết để tạo sự minh bạch trong hoạt động thanh toán,tạo điều kiện cho các công ty này phát triển.
Đại diện các Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài đang tỏ ra khá lo ngại đối với đề xuất giới hạn room ngoại ở các công ty Fintech là 30% theo Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 101/2012/NĐ-CP.
Tại VNPT EPAY, ngoài phần vốn do VNPT sở hữu, 65% vốn thuộc về hai nhà đầu tư Hàn Quốc là Global Payment Service (64,99%) và UTC Investment Co., Ltd (0,83%).
Cái lý của cơ quan quản lý
Theo quy định hiện hành, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các trung gian thanh toán chưa được NHNN quy định cụ thể mà đang thực hiện theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
Trên thực tế, hiện vốn ngoại tại một số tổ chức được NHNN cấp phép cung ứng dịch vụ thanh toán đã vượt mức chi phối (51%). Điển hình như tại VNPT EPAY, ngoài phần vốn do Tập đoàn VNPT sở hữu, 65% vốn thuộc về hai nhà đầu tư Hàn Quốc là Global Payment Service (64,99%) và UTC Investment Co., Ltd (0,83%); 90% vốn của 1Pay cũng đang do True Money nắm giữ...
Bởi vậy, NHNN muốn siết chặt kiểm soát room ngoại tại các Fintech bởi đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Hơn nữa, đề xuất quy định này còn nhằm tạo sự cạnh tranh công bằng hơn giữa các công ty trong nước và nước ngoài.
Theo một đại diện NHNN, sở dĩ NHNN quy định room ngoại tại các Fintech là do một số lý do sau: Thứ nhất, đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, ảnh hưởng đến sự ổn định và an toàn trong chính sách tiền tệ của quốc gia. Do đó, để tránh sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong hoạt động ngân hàng tài chính thì cần thiết quy định tỷ lệ tham gia góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, kiến tạo một môi trường kinh doanh phục vụ vì lợi ích quốc gia và tạo điều kiện để cộng đồng doanh nghiệp trong nước nắm bắt được cơ hội trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hơn nữa, một số ngành, phân ngành cũng đã quy định tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài như: hoạt động ngân hàng cổ phần không quá 30%, tổ chức tín dụng phi ngân hàng thực hiện theo quy định của công ty đại chúng không quá 49%,...
Không chỉ vậy, nhiều quốc gia trong khu vực như Indonesia hiện cũng khống chế tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thanh toán đối với các tổ chức nhận tiền gửi, vận hành bù trừ, chuyển mạch, quyết toán cuối cùng,... không vượt quá 20%.
Đảm bảo hài hòa mục tiêu
Trên thực tế, ở thời kỳ đầu phát triển, trung gian thanh toán - đa phần là các Fintech khởi nghiệp mới chỉ có ý tưởng và công nghệ - rất cần bơm vốn để phát triển và mở rộng. Do đó, Chính phủ các nước không khống chế việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư ngoại, qua đó khuyến khích các nhà đầu tư ngoại mang tiền, công nghệ, kỹ năng quản trị và kinh nghiệm vào, giúp thị trường phát triển.
Tuy nhiên, khi thị trường trung gian thanh toán đã phát triển ở quy mô nhất định, có thể ảnh hưởng đến an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán cũng như hoạt động ngân hàng, thì cơ quan quản lý mới nhận thấy cần đưa ra một khung pháp lý phù hợp, trong đó có quy định room sở hữu cho vốn ngoại để quản lý thị trường tốt hơn.
Một chuyên gia cho rằng, quyết định xem xét áp room vốn ngoại của NHNN là điều dễ hiểu trong bối cảnh hiện nay. Nếu khống chế tỷ lệ sở hữu của khối ngoại thì mức độ rủi ro an toàn tiền tệ và chủ quyền về không gian số sẽ thấp đi, nhưng có thể sẽ làm mất đi động lực của các nhà đầu tư ngoại khi tham gia thị trường Việt Nam.
Điều đó sẽ dẫn tới nguồn vốn đổ vào thị trường Việt Nam sẽ ít đi, ảnh hưởng tới khả năng phát triển của các công ty trung gian thanh toán, qua đó cũng tác động tiêu cực đến mục tiêu phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, cũng như việc thúc đẩy phổ cập tài chính của Việt Nam.
Bởi vậy, NHNN nên cân nhắc nới room ngoại cho các công ty Fintech. "Việc quyết định giới hạn sở hữu nào cho nhà đầu tư nước ngoài phải đảm bảo hài hòa các mục tiêu: Tạo sự minh bạch và lành mạnh trong hoạt động thanh toán, góp phần phòng chống rửa tiền; đồng thời cần tạo điều kiện để các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thu hút vốn đầu tư nước ngoài", vị này cho biết.
Trong khi TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV cho rằng, khi nhà đầu tư ngoại nắm quyền chi phối có thể ra những quyết định phục vụ lợi ích ngắn hạn của nhà đầu tư, thay vì suy xét trên bức tranh lớn của cả ngành và nền kinh tế. Tuy nhiên, trung gian thanh toán là ngành đặc biệt, nên NHNN cần có thêm nhiều công cụ mềm khác để quản lý. Do đó, đây không phải là vấn đề đáng quan ngại.
Hà Anh
Theo enternews.vn
Gọi đầu tư, Đà Nẵng tính hợp thửa hơn 10.000 lô đất tái định cư Chủ trương của thành phố sẽ hợp thửa các lô đất này thành các lô đất lớn và công khai quỹ đất, đảm bảo hạ tầng để kêu gọi đầu tư. Ông Trương Quang Nghĩa, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng cho biết, hiện thành phố có hơn 10.000 lô đất. Chủ trương của thành phố sẽ hợp thửa các lô đất này...