Viễn cảnh kinh tế năm 2023: Lạm phát không phải là quan ngại duy nhất
Trên toàn cầu, người dân phải đối mặt với tình trạng lạm phát ở mức độ chưa từng có trong nhiều thập niên khi giá cả các mặt hàng thiết yếu tăng mạnh.
Mặc dù đỉnh lạm phát có thể đã ở trước mắt nhưng tác động của nó có thể sẽ còn tồi tệ hơn nữa vào năm 2023.
Biển ghi giá rau củ tại khu chợ ở Bogota, Colombia trong tháng 10. Ảnh: Reuters
Hãng tin Reuters (Anh) chỉ ra chính dịch bệnh và xung đột đã dẫn đến nguy cơ này.
Sau khi COVID-19 bùng phát, các chính phủ và ngân hàng trung ương đã bơm hàng nghìn tỷ USD cứu trợ doanh nghiệp và hộ gia đình. Phao cứu sinh này giúp các doanh nghiệp tránh khỏi nguy cơ phá sản và người lao động không phải xếp hàng đợi tiền trợ cấp. Tuy nhiên, nó cũng tác động đến trật tự cung và cầu ở mức chưa từng có tiền lệ.
Đến năm 2021, khi các đợt phong tỏa chấm dứt và nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng nhanh, số tiền cứu trợ lại lấn át hệ thống giao dịch thế giới. Các nhà máy từng không có việc nay chưa kịp tăng tốc đáp ứng nhu cầu đặt hàng trong khi quy định về an toàn COVID-19 dẫn đến thiếu lao động trong ngành bán lẻ, vận tải, chăm sóc y tế. Sự khôi phục hậu COVID-19 còn dẫn đến tăng giá năng lượng.
Đến tháng 2/2022, xung đột Nga – Ukraine bùng phát kéo theo đó là các lệnh trừng phạt của phương Tây áp lên Moskva – nhà xuất khẩu khí đốt và dầu thô hàng đầu thế giới. Do đó, giá nhiên liệu lại tăng cao.
Lạm phát 2 con số làm trầm trọng hơn bất bình đẳng trên toàn cầu và hiện tượng này còn được gọi là “thuế áp lên người nghèo” bởi nó gây ảnh hưởng mạnh nhất đến người thu nhập thấp.
Trong khi những người giàu có dựa vào khoản tiếp kiệm trong quá trình diễn ra phong tỏa dịch COVID-19, những người khác lại chật vật và ngày càng nhiều cá nhân phải dựa vào ngân hàng thực phẩm.
Video đang HOT
Mùa đông đến, giá nhiên liệu sưởi ấm tăng mạnh càng gia tăng áp lực. Người lao động tại một số lĩnh vực ngành nghề, từ y tế cho đến hàng không, đã biểu tình yêu cầu mức lương cần điều chỉnh cùng tốc độ với lạm phát.
Một phụ nữ chọn đồ tại khu chợ địa phương ở Nice, Pháp trong tháng 6. Ảnh: Reuters
Quan ngại về chi phí sinh hoạt bao phủ nền chính trị của các quốc gia giàu có. Lạm phát là vấn đề quan tâm hàng đầu của Chính phủ Mỹ. Chính quyền đương nhiệm tại Pháp và Đức cũng “co kéo” ngân sách để dành hàng tỷ USD cho các chương trình hỗ trợ.
Ở những nước nghèo từ Haiti đến Sudan và Lebanon, Sri Lanka, giá thực phẩm leo thang càng làm trầm trọng tình hình đói nghèo. Chương trình Lương thực Thế giới ước tính từ khi xung đột Nga – Ukraine bùng phát đến nay, trên toàn thế giới, có thêm 70 triệu người đang bị đẩy gần vào tình trạng đói ăn, hiện tượng này được gọi là “sóng thần của tình trạng đói”.
Các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới cố gắng điều chỉnh lãi suất để giảm lạm phát. Mục tiêu là “hạ cánh mềm” trong đó lãi suất được điều chỉnh không dẫn đến sụp đổ thị trường bất động sản, các doanh nghiệp phá sản hoặc thất nghiệp gia tăng.
Từ Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ ( Fed) Jerome Powell cho đến Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde, ngày càng có nhiều thảo luận về việc “thuốc tăng lãi suất” có thể “đắng”. Ngoài ra, rủi ro bao quanh những điều bất định như xung đột Nga – Ukraine, căng thẳng Trung Quốc – phương Tây, đều có nguy cơ dẫn đến bất lợi.
Quỹ Tiền tệ quốc tế ( IMF) dự kiến đến cuối năm 2023, lạm phát toàn cầu giảm còn 4,7%. Dự báo trong tháng 10 của IMF có đoạn: “Nói tóm lại, điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến và đối với nhiều người dường như sẽ có suy thoái vào năm 2023″.
Nguy cơ suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính từ làn sóng tăng lãi suất trên thế giới
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), khi các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới đồng loạt tăng lãi suất để đối phó với lạm phát, kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái trong năm 2023 và các nền kinh tế đang phát triển, mới nổi sẽ đối mặt với khủng hoảng tài chính.
Trụ sở FED ở Washington, DC, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Xu hướng tăng lãi suất
Các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới đã tăng lãi suất trong năm nay với mức độ chưa từng thấy trong 5 thập kỷ qua, một xu hướng có thể sẽ tiếp tục diễn ra trong năm tới.
Thống kê cho thấy các ngân hàng trung ương lớn đã thực hiện nhiều đợt tăng lãi suất với tốc độ và quy mô chưa từng thấy trong năm 2022, để chống lại lạm phát cao trong nhiều thập niên.
Tính từ đầu năm đến nay, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất tổng cộng sáu lần, trong đó, bốn lần gần nhất đều nâng với mức 0,75 điểm phần trăm trong các cuộc họp tháng Sáu, tháng Bảy, tháng Chín và tháng Mười Một.
Theo một thống kê khác, các ngân hàng trung ương lớn, giám sát 8 trong số 10 loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất, đã thực hiện tăng tổng cộng 550 điểm cơ bản trong các đợt tăng lãi suất trong tháng 9/2022, nâng tổng mức tăng lãi suất trong chín tháng kể từ đầu năm 2022 từ các ngân hàng trung ương của các nước gồm Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Anh - và Mỹ lên 1.850 điểm cơ bản (hay hiểu theo cách khác là 18,5 điểm phần trăm).
Vincent Chaigneau, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Generali cho biết các ngân hàng trung ương trên đang tập trung vào việc kiềm chế lạm phát đang ở mức cao trong nhiều thập niên. Tuy nhiên, rủi ro là việc áp dụng biện pháp này trong một thời gian dài có thể gây ra tình trạng lãi suất tăng quá mức. Những lo ngại về việc các ngân hàng trung ương lớn tăng lãi suất quá nhanh và có khả năng đi quá xa đã khiến các thị trường quay đầu trong quý III/2022.
Tính đến đầu tháng Mười, ngân hàng trung ương ở các thị trường mới nổi đã tăng lãi suất tổng cộng 6.340 điểm cơ bản, nhiều hơn gấp hai lần so với mức 2.745 điểm cơ bản trong cả năm 2021 nhằm kiểm soát lạm phát.
Trong khi đó, WB cho rằng đường hướng của chính sách tăng lãi suất và các hành động chính sách khác có thể không đủ để đưa lạm phát toàn cầu trở lại mức như trước khi xảy ra đại dịch. Các nhà đầu tư dự kiến các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất chính sách tiền tệ toàn cầu lên gần 4% cho đến năm 2023, tăng hơn 2 điểm phần trăm so với mức trung bình năm 2021.
Nghiên cứu của WB cho thấy trừ khi tình trạng gián đoạn nguồn cung và áp lực thị trường lao động giảm bớt, nếu không, những đợt tăng lãi suất đó có thể khiến tỷ lệ lạm phát cơ bản toàn cầu (không bao gồm năng lượng) ở mức khoảng 5% vào năm 2023, gần gấp đôi mức trung bình 5 năm trước đại dịch.
Theo nghiên cứu trên, để cắt giảm lạm phát toàn cầu xuống mức phù hợp với mục tiêu, các ngân hàng trung ương có thể cần tăng lãi suất thêm nữa. Nếu chính sách này đi kèm với căng thẳng trên thị trường tài chính, tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ chậm lại xuống 0,5% trong năm 2023.
Nguy cơ đối với các nền kinh tế
Đồng USD. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN
Chủ tịch WB David Malpass cho biết tăng trưởng toàn cầu đang giảm tốc và có khả năng chậm hơn nữa khi nhiều quốc gia rơi vào suy thoái. Theo ông Malpass, mối lo ngại sâu sắc của ông là những xu hướng trên sẽ tiếp diễn, với những hậu quả tàn phá lâu dài ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.
Ayhan Kose, một quan chức cấp cao của WB nhận định việc thắt chặt chính sách tiền tệ và tài khóa gần đây có thể sẽ hữu ích trong việc giảm lạm phát. Nhưng do tính đồng bộ cao giữa các quốc gia, chính sách này có thể tác động lẫn nhau trong việc thắt chặt các điều kiện tài chính và khiến tốc độ tăng trưởng toàn cầu chậm lại. Do đó, các nhà hoạch định chính sách tại các thị trường mới nổi cần sẵn sàng ứng phó với những tác động tiềm ẩn từ việc thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu.
Một số chuyên gia bày tỏ quan ngại rằng việc tăng lãi suất trên diện rộng mà thiếu sự phối hợp và tính toán các tác động tới nhu cầu toàn cầu có thể dẫn tới các tổn hại không đáng có cho nền kinh tế thế giới. Việc ngân hàng trung ương của các nước cố gắng đưa ra các biện pháp riêng rẽ nhằm kiểm soát lạm phát trong nước một cách hiệu quả là điều cần thiết, song khả năng cao cũng sẽ đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào một cuộc suy thoái sâu hơn mức cho phép.
Theo WB, các nước nên tham khảo cách các nền kinh tế tiên tiến đã cùng hạ giá đồng USD vào giai đoạn 1985-1987, từ đó có thể phối hợp thúc đẩy một biện pháp tăng lãi suất chung nhằm giảm thiểu các rủi ro cho nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng Fed mới là cơ quan đóng vai trò động lực thúc đẩy việc tăng lãi suất trên quy mô toàn cầu. Do vậy theo các chuyên gia, Fed cần xem xét nghiêm túc tác động của các chu kỳ tăng lãi suất tại Mỹ đối với phần còn lại của thế giới.
Đối với các thị trường châu Á mới nổi, một số nhà phân tích nhận định trong vòng 25 năm qua, các nền kinh tế này đã trưởng thành và lành mạnh hơn, đồng thời có khả năng chịu áp lực tỷ giá hối đoái tốt hơn.
Ông Louis Kuijs, nhà kinh tế trưởng khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings, cho rằng chính sách của các thị trường châu Á mới nổi hiện đã mạnh hơn, còn giới hoạch định chính sách cũng đã chuẩn bị tốt hơn. Các ngân hàng trung ương hiện có chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn nhiều, khi họ chủ yếu để tỷ giá "hấp thụ" áp lực bên ngoài thay vì hỗ trợ tiền tệ bằng cách bán dự trữ ngoại hối.
Ngoài ra, các chính phủ châu Á đã theo đuổi nhiều chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng hơn trong những năm gần đây so với trước cuộc khủng hoảng năm 1997.
Một số nền kinh tế châu Á cũng đang duy trì thặng dư cán cân thanh toán và dự trữ ngoại hối được cải thiện nhờ những nỗ lực như Sáng kiến Đa phương hóa Chiang Mai năm 2010, một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ đa phương giữa các thành viên ASEAN 3, gồm các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và ba quốc gia Đông Bắc Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Chủ tịch ECB phát tín hiệu tiếp tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát Theo Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde, ECB đã điều chỉnh lãi suất với tốc độ nhanh nhất từ trước đến nay và cần phải tăng nhiều hơn nữa để đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2% do ngân hàng trung ương đề ra. Trụ sở Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tại Frankfurt am Main,...