Vì sao Lưu Bang quyết diệt trừ bằng được “chiến thần” Hàn Tín?
Lưu Bang diệt trừ chư hầu, trở thành hoàng đế khai quốc nhà Hán là nhờ công lớn của “ chiến thần” Hàn Tín, nhưng đến cuối cùng, Hán Cao Tổ vẫn quyết diệt trừ Hàn Tín bằng được.
Phác họa cảnh Hàn Tín chịu nhục phải chui háng.
Hàn Tín (229 TCN – 196 TCN) nổi tiếng là “chiến thần” bách chiến bách thắng trong thời Hán – Sở tranh hùng sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời.
Theo sử sách, Hàn Tín mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Ông sống cuộc đời cực khổ, có những hôm không câu được cá không có gì ăn.
Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ.
Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng, có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng. Tín chấp nhận chịu nhục chui qua háng dù bị mọi người chê cười.
Năm 209 trước Công nguyên, khởi nghĩa chống nhà Tần bùng nổ. Cuộc đời Hán Tín bước sang một trang mới khi ông gia nhập nghĩa quân do Hạng Lương và cháu là Hạng Vũ đứng đầu.
Không được Hạng Vũ trọng dụng, ông chuyển sang đầu quân cho Hán vương Lưu Bang, lúc bấy giờ cạnh tranh quyền lực quyết liệt với Sở Bá Vương Hạng Vũ. Nhờ mối quan hệ với tướng quốc nhà Hán là Tiêu Hà, Hàn Tín cuối cùng cũng được trọng dụng và được Lưu Bang phong làm tướng quân.
Hàn Tín lên đàn nhận phong tướng xong bèn phân tích cho Hán vương về những thế mạnh, yếu của Hạng Vũ và cách thức đánh bại Sở, đối thủ lớn nhất lúc bấy giờ của nhà Hán. Lưu Bang kể từ đó bắt đầu xem trọng Hàn Tín.
“Chiến thần” bách chiến bách thắng
Chỉ trong vòng 10 năm kể từ khi được Lưu Bang tin dùng, Hàn Tín đích thân đem quân chinh chiến, gặt hái hết thành công này đến thành công khác.
Năm 206 TCN, ông dẫn quân bình định Tam Tần, do các vua chư hầu Chương Hàm (Ung vương), Tư Mã Hân (Tắc vương) và Đổng Ế (Địch vương) nắm quyền.
Hàn tín là người biết chịu nhục mà ấp ủ chí lớn.
Đội quân do Hàn Tín chỉ huy đánh đâu thắng đó, ông chinh phạt nước Hàn, diệt Ngụy, lấy Triệu, thu phục nước Yên, chiếm nước Tề và tiến đến kẻ thù lớn nhất là Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ.
Năm 202 TCN, Lưu Bang theo kế của Trương Lương, bội ước mang quân đánh úp Hạng Vũ nhưng đại bại.
Lúc này, Lưu Bang mới nhờ cậy đến Hàn Tín và Bành Việt mang quân đến tiếp viện. Nhờ Hán Tín ra tay mà quân Hán mới vây chặt được Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ ở Cai Hạ, Trung Quốc, kết liễu đối thủ lớn nhất đời Lưu Bang.
Giết bạn để chứng minh lòng trung thành
Lưu Bang trở thành người thứ hai thống nhất Trung Hoa sau Tần Thủy Hoàng, tạo nên triều đại kéo dài hơn 400 năm. Hàn Tín với tư cách là công thần khai quốc nhà Hán, được Lưu Bang phong làm Tề Vương rồi sau đó là Sở Vương, nắm quyền bá chủ một vùng.
Mặt khác, đẩy được Hàn Tín rời kinh đô cũng giúp Lưu Bang giảm tầm ảnh hưởng của “chiến thần” trong triều.
Video đang HOT
Năm thứ hai Hàn Tín lên làm Sở vương, có người đã dâng tấu cáo buộc Tín mưu phản. Bản thân Lưu Bang cũng hiểu rõ đó là lời vu cáo vô căn cứ, nhưng vẫn nhân cơ hội này để hạ bệ Hàn Tín.
Khi có người bẩm báo Hàn Tín mưu phản, các quan trên triều đều vô cùng phẫn nộ.
Lưu Bang chưa tỏ thái độ ngay, kín đáo hỏi ý kiến Trần Bình. Trần Bình có hỏi: “Quân của bệ hạ có tinh nhuệ hơn quân của Hàn Tín không?” Lưu Bang trả lời: “Không sánh kịp”
Trần Bình lại hỏi tiếp: Tướng của bệ hạ có mạnh hơn tướng của Hàn Tín không? Lưu Bang lại trả lời: Sao sánh bằng!
Hình tượng Hàn Tín trong phim truyền hình Trung Quốc.
Tới lúc này, Trần Bình mới nói: Quân không tinh bằng quân hắn, tướng không giỏi hơn tướng hắn, lại muốn đem quân đi đánh, chẳng khác nào cố ép hắn phải làm phản. Lưu Bang nghĩ cũng xuôi nên lên kế hoạch bắt Hàn Tín.
Khi ấy, Lưu Bang lấy danh nghĩa thiên tử đi tuần, xuống gần nước Sở ở phía nam. Hàn Tín không biết ứng phó như thế nào, bởi không biết Lưu Bang muốn bắt mình hay không.
Để tỏ lòng trung thành, ông bèn lấy đầu người bạn cũ Chung Ly Muội nộp cho Lưu Bang. Bởi Lưu Bang thuở xưa rất căm ghét Chung Ly Muội khi người này còn là tướng dưới quyền Hạng Vũ. Nhưng ngay sau đó, Hàn Tín lập tức bị bắt, đem giải về kinh thành.
Hàn Tín vì không phục, nhưng chỉ biết than trời: “thỏ chết thì giết chó, chim hết thì bẻ cung, diệt xong địch thì công thần phải chết.”
Nghi án mưu phản bất thành
Nhưng Lưu Bang cũng không vội vàng giết Hàn Tín ngay, Hán Cao Tổ chỉ nhân cơ hội này khiến Hàn Tín mất đi thanh danh “khai quốc công thần”.
Mặc dù được phóng thích, nhưng Hàn Tín bị giáng chức làm Hoài Âm hầu. Theo tước vị, dưới vương là công và sau đó mới đến hầu. Điều này khiến ông như “cá nằm trên thớt”, vô cùng căm phẫn.
Năm 200 TCN, viên tướng Trần Hy được cử đến trấn thủ Cự Lộc ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Trước khi lên đường, Trần Hy có tới chào từ biệt Hàn Tín.
Hàn Tín nói: “Nếu ngươi đi đến đó, ắt sẽ có người cáo ngươi mưu phản, trước sau sẽ bị giáng họa”. Không rõ vì câu nói này của Hàn Tín hay không mà Trần Hy làm phản thật.
Hàn Tín một lòng trung thành với Lưu Bang để rồi nhận cái chết thảm khốc.
Đích thân Hán Cao Tổ dẫn quân đi dẹp loạn, để thái tử Lưu Doanh ở lại trấn thủ kinh thành.
Năm 196 TCN, Lưu Bang ngự giá thân chinh, Hàn Tín cáo bệnh không theo, còn cho người mang thư đến chỗ Trần Hy, hẹn sẽ làm nội ứng tại kinh thành, theo sử sách chép lại.
Sự việc bại lộ, Lã hậu cùng Tiêu Hà nhân cớ này trừ khử Hàn Tín. Lã hậu phao tin biên ải đại thắng, Trần Hy bị diệt, mời quần thần vào cung mở tiệc ăn mừng. Hàn Tín vì chột dạ nên định cáo bệnh, nhưng không qua mắt được Lã hậu. Hàn Tín vừa vào cung đã bị bắt sống và bị xử tử ở cung Trường Lạc.
Các sử gia Trung Quốc ngày nay hầu hết đều cho rằng Hàn Tín không hề có âm mưu làm phản. Nếu muốn làm phản, Tín có nhiều cơ hội kể từ khi còn là Sở Vương, cho đến lúc giết Chung Ly Muội để chứng tỏ lòng trung thành. Đến cuối cùng, Hàn Tín mà có ý làm phản thì chắc hẳn sẽ không dám theo Tiêu Hà vào cung để cho Lã hậu bắt chém.
Trên thực tế, không phải một mình Hàn Tín là nạn nhân của Lưu Bang. Hàng loạt các khai quốc công thân khác, những người được phong vương rồi cũng bị phế truất để thay bằng các hoàng tử nhà họ Lưu.
Ngày nay, Hàn Tín được coi là một trong những anh hùng kiệt xuất, hiếm có trong lịch sử Trung Quốc.
Theo Danviet
3 triều đại hùng mạnh nhất trong lịch sử Trung Quốc
Trung Quốc là một trong số ít các quốc gia có nền văn minh lâu đời nhất thế giới, với những triều đại hùng mạnh, đạt đến mức phồn thịnh, đóng góp vào sự phát triển của nước này..
Binh sĩ Trung Quốc đứng gác tại Quảng trường Thiên An Môn.
Theo National Interest, trái với quan niệm phương Tây rằng Trung Quốc thời xa xưa bị cô lập và suy yếu, nhiều triều đại Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, có tầm ảnh hưởng lớn đối với thế giới.
Đến thời nhà Minh, tàu thuyền Trung Quốc đã vươn ra khắp nơi trên toàn thế giới để đẩy mạnh giao thương và ngoại giao. Có thể nói, Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới và nền văn minh lâu đời, luôn là một cường quốc không thể xem thường.
Dưới đây là 3 triều đại hùng mạnh nhất trong lịch sử Trung Quốc theo đánh giá của National Interest.
Nhà Hán
Hán Cao tổ Lưu Bang là người có công lập nên nhà Hán. Ảnh minh họa.
Nhà Hán cai trị Trung Quốc trong vòng 4 thế kỷ, từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220. Thừa hưởng đất nước Trung Quốc thống nhất từ nhà Tần, nhà Hán mới là triều đại duy trì sự thống nhất này và phát triển các thể chế đặc trưng nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Hán duy trì bộ máy quân chủ chuyên chế thông qua hệ thống thu thuế hiệu quả, triệt để hơn bất kỳ một thể chế nào đương thời. Để có được doanh thu, nhà Hán cũng độc quyền về sắt và muối.
Nguồn của cải dồi dào giúp nhà Hán mở rộng biên giới Trung Quốc xa hơn nữa về phía miền nam. Những bộ tộc yếu thế hơn và có nền văn hóa không lớn mạnh bằng nhanh chóng bị đánh bại.
Tuy vậy, vấn đề lâu năm của Trung Quốc khi đó là sự quấy phá của người du mục ở phía bắc. Đó là lý do Tần Thủy Hoàng thời nhà Tần ra lệnh xây dựng Vạn lý trường thành. Nhà Hán tiếp tục mở rộng các cuộc viễn chinh về phương bắc hơn nữa, vươn đến Tân Cương và Trung Á ngày nay.
Bước phát triển vượt bậc giúp Trung Quốc nhanh chóng mở rộng quan hệ giao thương với các nền văn minh khác, sau hình thành tuyến đường thương mại quy mô lớn gọi là con đường tơ lụa.
Để kiểm soát các tuyến đường thương mại và đánh bại kẻ thù, Trung Quốc kiểm soát Tân Cương, làm bàn đạp mở rộng ảnh hưởng ra phía tây. Phật giáo cũng du nhập vào Trung Quốc thông qua tuyến đường này.
Nhà Đường
Nhà Đường hùng mạnh từng thảm bại trước đế chế Hồi giáo.
Sau khi nhà Hán sụp đổ bởi nội chiến, Trung Quốc bước vào giai đoạn hỗn loạn và chia rẽ cho đến khi lại được thống nhất bởi nhà Tùy. Nhà Đường hình thành sau đó chi phối Trung Quốc trong giai đoạn năm 618-907.
Nhà Đường được đánh giá là triều đại mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc ra trường quốc tế. Lực lượng quân sự của Trung Quốc thời nhà Đường cũng đạt đến mức hùng mạnh nhất, là giai đoạn vàng của thời đại quân chủ chuyên chế.
Ở giai đoạn cực thịnh, nhà Đường kiểm soát lãnh thổ rộng gấp đôi nhà Hán. Số dân đông đảo khi đó lên tới 80 triệu người, vượt trội hoàn toàn so với các dân tộc láng giềng.
Cũng trong thời kỳ này, tầm ảnh hưởng của nhà Đường lan rộng đến cả Hàn Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng. Mặc dù không cai trị Tây Tạng, nhà Đường là triều đại đầu tiên của Trung Quốc mở rộng tầm ảnh hưởng đến cao nguyên này.
Một phần thành công của nhà Đường là nhờ học được cách chiến đấu trước dân du mục. Nhà Đường đặc biệt chú trọng đến việc nuôi giống, đưa ngựa chiến vào hàng ngũ quân đội. Nhà Đường cũng sẵn sàng trọng dụng các tướng tài xuất thân từ vùng Trung Á.
Nhà Đường một lần nữa vươn tầm kiểm soát tới khu vực Tân Cương, chạm đến biên giới với Đế quốc Ba Tư. Thất bại của nhà Đường trước quân Ả Rập vào năm 751 chấm dứt thống trị Trung Á của hoàng đế Trung Quốc.
Trong những năm cuối triều đại, khởi nghĩa An Lộc Sơn nổ ra, khiến nhà Đường rơi vào bất ổn và suy vong. Ước tính một nửa số dân nhà Đường thời kỳ này chết vì chiến tranh, nạn đói và bệnh dịch.
Nhà Thanh
Càn Long là hoàng đế nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời nhà Thanh. Ảnh minh họa.
Tất cả những triều đại sau nhà Đường đều khiến Trung Quốc suy yếu và chìm trong chiến tranh. Chỉ đến khi nhà Minh thành lập (1368-1644), đất nước Trung Quốc mới lại thống nhất.
Nhưng nhà Minh được các sử gia Trung Quốc coi là một trong những triều đại tồi tệ nhất vì nạn hoạn quan hoành hành.
Đến triều nhà Thanh (1644-1911), Trung Quốc trải qua giai đoạn quân chủ chuyên chế cực thịnh cuối cùng. Không chỉ đạt thành tựu lớn về văn hóa, lịch sử, nhà Thanh có công lớn giúp duy trì đất nước Trung Quốc rộng lớn như hiện nay.
Nhưng nhà Thanh cũng là đối tượng bị chỉ trích bởi các nhà sử học vì sự yếu kém trong hệ thống lãnh đạo đã tạo cơ hội để phương Tây nhảy vào xâu xé.
Nhà Thanh thực tế không có nguồn gốc Trung Quốc. Đó là người mãn từ phía bắc Trung Quốc tràn xuống qua Vạn lý trường thành. Nhưng khi kiểm soát Trung Quốc thì họ cũng bị đồng hóa, duy trì phong tục Trung Hoa nhiều hơn là phong tục truyền thống.
Thuốc súng được phát hiện ở thời kỳ này, giúp nhà Thanh kiểm soát một cách hiệu quả hơn các vùng đất xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương, Mãn Châu và Mông Cổ.
Nhà Thanh cũng đạt thành tựu về ngoại giao khi ngăn Nga và Anh mở rộng thêm lãnh thổ. Trung Quốc được coi là vùng đệm hoàn hảo ngăn Nga và Anh xung đột.
Nhưng nhà Thanh đã không thể chống đỡ các mối đe dọa từ biển, đầu tiên là phương Tây và sau đó là đế quốc Nhật Bản.
Có thể nói, nhà Thanh đã có công gìn giữ một khu vực lãnh thổ rộng lớn, làm nền tảng cho Trung Quốc bước vào thời đại mới.
Theo Danviet
TQ: Tìm thấy hài cốt Ngụy vương Tào Tháo trong mộ cổ 2.000 năm? Các nhà khảo cổ Trung Quốc được cho là đã khai quật mộ cổ 2.000 năm, tìm thấy 3 bộ hài cốt trong đó có một người được xác định chính là Tào Tháo. Toàn cảnh khu lăng mộ đang được khai quật. Theo Taiwan News, Tào Tháo (155-220) là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử Trung Quốc trong...