Vì sao lãi suất vay chưa giảm?
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa công bố giảm lãi suất điều hành và trần lãi tiền gửi lần thứ 3 trong năm 2020, áp dụng từ ngày 1-10. Theo đó, trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống còn 4%/năm; đồng thời yêu cầu các ngân hàng giảm lãi suất cho vay ở một số lĩnh vực, ngành kinh tế ưu tiên xuống 4,5%/năm.
Lãi suất vay chưa hấp dẫn doanh nghiệp
Động thái liên tục giảm lãi suất điều hành cùng với việc đề xuất sửa đổi Thông tư 01 theo hướng kéo dài thời gian cơ cấu nợ, miễn giảm lãi vay cho doanh nghiệp (DN) chịu ảnh hưởng của Covid-19 cho thấy, NHNN đang áp dụng nhiều biện pháp cùng lúc để thúc đẩy hỗ trợ DN, tăng trưởng kinh tế. Thời gian qua dù lãi suất vay đầu ra đã giảm khá nhiều nhưng cầu tín dụng vẫn tăng thấp. Tăng trưởng tín dụng 9 tháng chỉ ở mức 6,09%, thấp nhất trong 5 năm qua, trong khi huy động vốn tăng 7,7%.
Giao dịch tại Ngân hàng BIDV. Ảnh: CAO THĂNG
Ghi nhận tại nhiều ngân hàng, lãi suất huy động dưới 6 tháng xuống dưới 4% và cao nhất ở mức 7,2%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng. Tuy nhiên, lãi suất cho vay đang ở mức 5%-8%/năm cho vay ngắn hạn và 8%-11%/năm cho vay trung – dài hạn (phải có tài sản thế chấp). Riêng lãi suất ngắn hạn và các gói cho vay ưu đãi 5%-6%/năm được nhiều DN phản ánh điều kiện cho vay quá khắt khe, khó tiếp cận. Các DN kiến nghị, trong bối cảnh hiện nay, lãi suất cho vay trung và dài hạn chỉ nên ở mức 2%-3% so với lãi huy động, tức quanh mức 6%-7%/năm. Một số DN và hiệp hội ngành nghề đã đề xuất cho vay vốn với lãi suất 0% nhằm giúp DN vượt qua mùa dịch.
Vì sao chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra chưa được như kỳ vọng của cộng đồng DN dù ngân hàng đang thừa vốn? Lãnh đạo một ngân hàng trong nhóm “Big 4″ (4 ngân hàng lớn có vốn nhà nước là Vietcombank, VietinBank, Agribank và BIDV) nhìn nhận, tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp có một phần do ngân hàng ngại cho vay trong bối cảnh dịch Covid-19, rủi ro khó lường, tiềm ẩn gia tăng nợ xấu rất cao.
“Chúng tôi vẫn đang cho các DN tốt, khách hàng lâu năm vay trung và dài hạn với mức lãi suất 5%-6%/năm. Trong khi đó, một số DN khác tha thiết vay và chấp nhận với lãi suất 11%-12%/năm nhưng ngân hàng e ngại. Dù rất muốn đẩy tăng trưởng tín dụng nhưng không phải hồ sơ vay nào cũng được giải ngân, chúng tôi ưu tiên những DN hoạt động ổn định, an toàn và đảm bảo có khả năng trả nợ”, vị này cho hay.
Báo cáo phân tích lợi nhuận ngành ngân hàng của Công ty Chứng khoán Maybank KimEng cũng cho biết, việc hỗ trợ DN giãn, hoãn nợ đã ảnh hưởng đến chỉ số NIM (biên độ lãi ròng) bình quân của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm, chỉ còn 3,2% (giảm khoảng 0,4% so với cuối năm 2019). Ước tính chỉ số NIM của hệ thống ngân hàng cuối năm 2020 sẽ giảm về khoảng 3%, nên dư địa giảm lãi suất cho vay còn rất ít.
Video đang HOT
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, nếu áp dụng lãi suất 0% cho một số DN đặc thù thì Chính phủ phải tài trợ lãi suất này, vì thực tế chỉ có ngân hàng Trung ương mới có chính sách lãi suất 0%. Các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể cho vay hỗ trợ DN ở mức 2%-3%/năm với điều kiện được ngân sách Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất, nhưng trong bối cảnh hiện nay, giải pháp này không được đánh giá cao. Thay vào đó, Chính phủ cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc cho gói hỗ trợ kinh tế được hiệu quả hơn.
Nợ xấu tăng
Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm 2020 chủ yếu phụ thuộc vào nhóm “Big 4″. Nhìn vào bức tranh lợi nhuận ngân hàng 6 tháng đầu năm cho thấy, 3/4 NHTM “Big 4″ đều giảm trong khi nợ xấu tăng mạnh.
Cụ thể, lợi nhuận trước thuế của Vietcombank giảm gần 3% so với cùng kỳ 2019, ở mức gần 11.000 tỷ đồng, nợ xấu tăng thêm 630 tỷ đồng, nâng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay lên 0,83% từ mức 0,79%. Lợi nhuận trước thuế của Agribank 6 tháng đầu năm giảm 13,2%, nợ xấu nội bảng của Agribank tăng 39% so với đầu năm. Lợi nhuận trước thuế của BIDV 6 tháng đầu năm giảm hơn 5% do tăng trưởng tín dụng thấp.
Giao dịch tại Ngân hàng BIDV. Ảnh: CAO THĂNG
VietinBank là trường hợp cá biệt khi lợi nhuận 6 tháng đầu năm tăng đột biến, gần 40% so với cùng kỳ, nhưng con số này không phản ánh hoạt động kinh doanh mà chủ yếu do giảm dự phòng rủi ro hơn 10% so với cùng kỳ. Lợi nhuận tăng nhưng cuối quý 2-2020, tổng giá trị nợ xấu của VietinBank cũng tăng 50% so với cuối năm 2019.
Không chỉ các NHTM lớn, nhóm NHTM nhỏ như Bắc Á bank có lợi nhuận trước thuế 353 tỷ đồng, giảm 19% so với cùng kỳ. Kienlongbank lợi nhuận trước thuế 6 tháng đầu năm giảm 31%; Eximbank giảm 28%…
Thực tế thời gian qua, do dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của các DN nên ngành ngân hàng ban hành các chính sách hỗ trợ như giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ. Điều này tác động đến tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận của các ngân hàng trong 2 quý đầu năm. Tín dụng một số NHTM nhỏ vẫn chưa thoát được tăng trưởng âm, như Saigon Bank dư nợ cho vay khách hàng giảm gần 3%; SeABank giảm 1%; Eximbank giảm 9%…
Ngành ngân hàng đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Trong bối cảnh khó khăn chung, nguồn thu chính của các ngân hàng là hoạt động cho vay (chiếm hơn 70% tổng nguồn thu), NHTM nào cũng muốn thúc đẩy tăng trưởng tín dụng để đảm bảo lợi nhuận. Tuy nhiên, ồ ạt cho vay ra lúc này nếu không kiểm soát tốt sẽ dẫn đến nguy cơ nợ xấu tăng cao, thì tình hình còn tệ hơn.
Báo cáo mới đây về tình hình kinh tế Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, một hiệu ứng khi nới lỏng cho vay là một số ngân hàng kết quả kinh doanh kém đi do tỷ lệ nợ xấu trong danh mục tăng lên (trích lập dự phòng tăng kéo lợi nhuận giảm – PV). Theo WB, giữa năm 2020, khoảng 1/4 danh mục vốn vay của Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi Covid-19 và một số có khả năng thành nợ xấu. NHNN cho biết, ước tính khoảng 2,5 triệu tỷ đồng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh (khoảng 30% tín dụng toàn hệ thống), tiềm ẩn rủi ro với hoạt động ngân hàng.
Dự báo kết quả kinh doanh quý 3 ngành ngân hàng tiếp tục khởi sắc
Với cac chinh sach hô trơ cua NHNN va sư phuc hôi cua tang truơng kinh tê, kêt qua kinh doanh cua hâu hêt cac ngan hang nhìn chung vân đang duy tri tich cưc, vơi kết quả quy 3/2020 được dự báo sẽ khơi săc so vơi quy 2/2020.
Các ngân hàng tư nhân ghi nhận tăng trưởng tín dụng khá tốt. Ảnh: ST
Tăng trưởng tín dụng phục hồi khá
Theo thông tin của NHNN, tính đến 30/9, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã đạt 6,09%, mức tốt hơn khá nhiều so với kỳ vọng ban đầu của giới phân tích. Đáng chú ý, tại thời điểm 16/9, tăng trưởng tín dụng mới chỉ đạt 4,8%. Như vây, tín dụng đã tăng rất nhanh trong nửa cuối tháng 9. Theo đó, NHNN kỳ vọng đến cuối năm, tăng trưởng tín dụng có thể đạt 8-10%.
Cac ngan hang quôc doanh do quy mo cho vay lơn nen tang truơng tin dung chạm hon so vơi khôi tu nhan. Các chuyên gia của Công ty chứng khoán Rồng Việt dự báo, tin dung quy 3 cua cac ngan hang quôc doanh nhiêu kha nang đi ngang so vơi cuôi quy 2. Trong khi đó, cac ngan hang tu nhan vân đang tang truơng tin dung tôt va dư kiên se co thê sư dung hêt han mưc tin dung mơi đuơc giao (khoảng 20%), mọt sô ngan hang con co kê hoach xin nơi them han mưc mọt lân nưa vao quy 4.
Với tông phuong tiẹn thanh toan va huy đọng tang cao hon kha nhiêu so vơi tang truơng tin dung, thanh khoan hẹ thông tiêp tuc dôi dao vơi lai suât lien ngan hang duy tri ơ mưc thâp, cac ngan hang tiêp tuc ha lai suât huy đọng.
Hồi đầu năm các ý kiến dự báo đều cho rằng ngành ngân hàng sẽ gặp khó khăn do phải giảm lãi suất cho khách hàng, giảm biên lãi ròng, phải trích lập dự phòng... Tuy nhiên, những chính sách khuyến khích của NHNN đã hỗ trợ rất nhiều cho các ngân hàng.
Cụ thể, NHNN đã chấp thuận nới thêm hạn mức tín dụng cho các ngân hàng tư nhân từ 11-13% hồi đầu năm lên 20-23%. NHNN cũng đang xem xét cho phép mở rộng phạm vi giãn nợ theo thông tư 01. Bên cạnh đó, từ đầu năm đến nay, NHNN cũng đã 3 lần giảm lãi suất điều hành, trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn, trần lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên. Đồng thời, nới lộ trình tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (12 tháng), cho phép duy trì tỷ lệ 40% đến 30/9/2021 và yêu cầu giảm dần xuống 30% sau hai năm.
Với 4 chính sách này, các ngân hàng đã được hỗ trợ nhiều mặt từ tăng trưởng lãi, chi phí dự phòng, giúp kết quả kinh doanh của các ngân hàng đạt rất tốt trong quý 2 và xu hướng này sẽ tiếp tục duy trì, thậm chí có thể cải thiện trong quý 3.
Nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát
Theo NHNN, tính đến hết tháng 8/2020, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống tuy có tăng so với mức 1,63% của cuối năm 2019, tuy nhiên tiếp tục được duy trì ở mức dưới 2%. Tiến độ xử lý nợ xấu của cả ngành bị chậm lại so với kế hoạch trước dịch, song tình hình nợ xấu chung của hệ thống cho thấy vấn đề về chất lượng tài sản vẫn đang trong kiểm soát.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng số liệu trên chưa bao gồm nợ phát sinh tương lai, đặc biệt từ 321.000 tỷ đồng của 271.000 khách hàng mà các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ tính đến 14/9/2020 (chiếm 3,6% dư nợ cả hệ thống).
Điểm tích cực là dư nợ tái cơ cấu do dịch tại phần lớn các ngân hàng không tăng thêm nhiều sau khi đạt đỉnh vào giai đoạn giãn cách xã hội, theo kết quả khảo sát của Rồng Việt. Nhiều ngân hàng thậm chí không có nhu cầu sửa đổi Thông tư 01 về việc gia hạn thời gian giãn nợ.
Ngân hàng và doanh nghiệp đều 'ngóng' quy định cơ cấu lại nợ Việc chậm trễ ban hành Thông tư sửa đổi Thông tư 01 sẽ thiếu tính thực chất và bền vững trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, mà còn khiến ngân hàng gặp khó khăn khi thực hiện giãn, hoãn nợ, hạ lãi suất cho vay..., do cơ chế hiện nay đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp với tình hình...