Vì sao hơn 1 triệu người Liên Xô chiến đấu cho Đức trong Thế chiến II?
Không phải là chi tiết đáng tự hào của lịch sử Nga, nhưng sự thật là ở Liên Xô có một số người hợp tác với Đức Quốc xã.
Ngày 12/7/1942, Thế chiến II đang hoành hành ác liệt ở Liên Xô; các vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía Tây nằm dưới sự kiểm soát của Đức và nỗ lực của Liên Xô nhằm giải phóng các khu vực này khỏi quân Đức chưa thành công. Quân đoàn xung kích số 2 của Mặt trận Volkhov – một phần lực lượng chi viện thành phố Leningrad đang bị phong tỏa, bị quân phát xít bao vây và bị đánh bại thảm khốc.
Andrei Vlasov đứng giữa, tháng 11/1944. Nguồn: rbth.com
Hai tuần sau, một thôn trưởng địa phương báo với người Đức anh ta đã bắt được một người đàn ông đáng ngờ, có thể là một du kích, và đang giữ anh ta trong một nhà kho. Khi những người lính Đức với súng máy tiến đến gần chuồng ngựa, một người đàn ông cao lớn đeo kính bước ra và nói bằng tiếng Đức gượng gạo: “Đừng bắn. Tôi là tướng Vlasov”. Đây là một con cá khá lớn – Andrei Vlasov – Tư lệnh Quân đoàn xung kích số 2, trước đó đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ Kiev và Moscow.
Tuy nhiên, tất cả vinh quang trên bị lu mờ và ô nhục là Vlasov đồng ý phục vụ Đức và lãnh đạo cái gọi là Quân đội Giải phóng Nga (RLA), bao gồm tù binh Liên Xô, chống lại Tổ Quốc của mình. Thậm chí ngày nay, tên Vlasov ám chỉ sự phản bội. Y trở thành một biểu tượng của tráo trở, và những người phạm tội phản quốc trong Thế chiến II, làm việc cho Đức thường được gọi là Vlasovtsy (người phe Vlasov trong tiếng Nga). Trên thực tế, có nhiều công dân Liên Xô và người dân tộc thiểu số Nga, không chỉ các thành viên của RLA, đã hợp tác với Đức Quốc xã.
Vấn đề hợp tác
Sự hợp tác của công dân Liên Xô với quân phát xít không phải là một chủ đề để thảo luận ở Nga. Có lẽ đây là một phần của di sản Xô Viết của Nga: Từ gần 50 năm nay, sự thật về vấn đề hợp tác đó đã không được nhắc đến ở Nga, theo nhà sử học Sergei Drobyazko – người đã có phân tích kỹ lưỡng về chủ đề này trong tác phẩm “Dưới ngọn cờ của kẻ thù: Chống Liên Xô trong quân đội Đức 1941-1945″ của mình.
Người Nga phục vụ trong quân đội Đức, Mặt trận phía Đông, 1941-1945. Nguồn: rbth.com
Thực tế một số công dân Liên Xô muốn đứng về phía Hitler chống Liên Xô là quá nhạy cảm để thảo luận trong thời kỳ Xô Viết. Và đây cũng không phải là một nhóm nhỏ của những kẻ lập dị. Tổng cộng, số lượng công dân Liên Xô và người di cư Nga phục vụ trong hàng ngũ quân đội Đức, SS, cảnh sát và dân quân thân Đức là gần 1,2 triệu người (trong đó có tới 700.000 người Slavơ, 300.000 người Baltic và 200.000 người Thổ Nhĩ Kỳ, người Kavkaz và từ các dân tộc thiểu số), Drobyazko cho biết.
Có hai điều quan trọng cần nhớ ở đây. Đầu tiên, điều này không có nghĩa là tất cả 1,2 triệu người này thực sự đã chiến đấu trực tiếp chống lại Liên Xô. Phần lớn trong số họ được sử dụng làm cảnh sát, tài xế,… và/hoặc không ở Mặt trận phía Đông. Thứ hai, con số này khá thấp, do theo điều tra dân số năm 1939, có 170 triệu người sống ở Liên Xô trước chiến tranh. Nói cách khác, đại đa số người dân Liên Xô đã chiến đấu anh dũng chống lại Đức quốc xã và vẫn trung thành với đất nước của mình. Tuy vậy, vẫn đáng để đặt câu hỏi: tại sao nhiều người Nga lại sát cánh với Đức?
Lý do phản quốc
Video đang HOT
Trước chiến tranh, Liên Xô giống một khối đá đỏ khổng lồ rắn chắc, đặc biệt là nhìn từ bên ngoài, nhưng thực tế, nó ẩn chứa nhiều vấn đề lớn. Không phải tất cả mọi người hài lòng với sự lãnh đạo của những người Bolshevik, đặc biệt là trong bối cảnh những cuộc đàn áp tàn bạo diễn ra dưới thời Joseph Stalin. Hơn nữa, cuộc chiến bắt đầu thảm khốc, mùa hè và mùa thu năm 1941, Đức Quốc xã đã chiếm đóng các vùng lãnh thổ rộng lớn và ngấp nghé tiến về Moscow, nhiều người đặt câu hỏi liệu việc chống trả có khả thi không.
Những tình nguyện của Quân đội Giải phóng Nga, 1944. Nguồn: rbth.com
Thất bại thảm khốc Hồng quân phải chịu trong mùa hè-thu năm 1941 khiến người dân hoài nghi về khả năng lãnh đạo, sự bất lực của chính quyền Xô Viết trong việc kiểm soát tình hình và thậm chí là phản quốc. Hơn nữa, cuộc chiến đã gợi mở những mâu thuẫn mà xã hội Liên Xô đang phải chịu đựng, Drobyazko cho biết. Tuy nhiên, không phải tất cả những người phải chịu đựng chế độ Stalin nhớ đến ông trong thời khắc đất nước lâm nguy.
Bị dồn vào chân tường và chống Bolshevik
Oleg Budnitsky – giám đốc Trung tâm quốc tế về lịch sử và xã hội học của Thế chiến II – nhấn mạnh những lựa chọn khó khăn mà nhiều cộng tác viên phải đối mặt: phần lớn người Xô Viết hợp tác với Đức là vì hoàn cảnh…, trong tình thế nguy kịch, một lựa chọn mà họ cho là ít xấu xa hơn hoặc đơn giản là có thể cứu mạng họ. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, tù binh Xô Viết bị chính phủ Liên Xô đối xử với sự ngờ vực và bị coi là những kẻ phản bội tiềm năng. Điều này khuyến khích một số người trong số họ thực sự trở thành kẻ phản bội.
Một đơn vị Quân đội Giải phóng Nga. Nguồn: rbth.com
Đồng thời, Budnitsky lưu ý, có một phần trăm những người đã chống đối sâu sắc với những người Bolshevik và chiến đấu chống lại Liên Xô vì lý do ý thức hệ. Quân Bạch vệ phải rời khỏi Nga sau khi Hồng quân giành chiến thắng (mặc dù chỉ một phần nhỏ trong số này đứng về phía Đức quốc xã) và người dân từ các vùng lãnh thổ mà Liên Xô đã sáp nhập trước Thế chiến II – các quốc gia Baltic độc lập trước đây và các khu vực của Tây Ukraine và Tây Belarus từng là một phần của Ba Lan.
Các đồng minh không mong muốn
Nếu giới chức Đức tận dụng tối đa những người hăng hái chiến đấu chống Liên Xô, cơ hội chiến thắng của họ sẽ gia tăng đáng kể. Một quan chức Đức thuộc Bộ phụ trách các vùng lãnh thổ chiếm đóng, cho biết vào năm 1942, cuộc kháng chiến của các binh sĩ Hồng quân sẽ bị phá vỡ khi họ nhận ra Đức sẽ mang lại cho họ một cuộc sống tốt hơn so với Liên Xô. Ý tưởng đánh vào chủ đề Nga Cộng sản đã được một số quan chức phát xít khởi xướng. May mắn thay cho Moscow, Hitler đã loại bỏ ý tưởng này, và y không muốn nghe bất cứ điều gì về nhà nước Nga Cộng sản. Học thuyết của Hitler yêu cầu phá hủy không chỉ Liên Xô mà còn cả khái niệm về nhà nước Nga, thâu tóm tất cả.
Điều ngu ngốc nhất làm tại các lãnh thổ phương Đông bị chiếm đóng là cung cấp vũ khí cho các quốc gia bị chiếm đóng, Hitler nhấn mạnh. Đó là lý do tại sao, cho đến khi Đức quốc xã trở nên tuyệt vọng vào năm 1944, người Đức chỉ sử dụng những người Liên Xô thân Đức, bao gồm Vlasov và RLA, như một công cụ tuyên truyền. Họ ném bom Hồng quân với tờ rơi kêu gọi nổi dậy nhưng từ chối trao cho Vlasov bất kỳ lực lượng thực sự nào để chỉ huy. Một đội hình khác của Nga trong Đức Quốc xã, Quân đoàn bảo vệ Nga, đã được sử dụng ở Nam Tư để chiến đấu chống lại du kích địa phương vào năm 1942-1944, nhưng Hitler đã không đủ tin tưởng người Nga để dùng họ chiến đấu chống lại chính Liên Xô.
Kết thúc tuyệt vời
Tất cả những điều này chỉ thay đổi vào tháng 9/1944, khi Hồng quân đang áp sát nước Đức. Vào thời điểm đó, Đức Quốc xã đã đủ tuyệt vọng để sử dụng bất cứ thứ gì có thể giữ cho đế chế sắp sụp đổ của họ còn nguyên vẹn. Chính Heinrich Himmler đã gặp Andrei Vlasov và xử phạt việc thành lập Ủy ban Giải phóng Nhân dân Nga và Lực lượng Quân sự nằm dưới sự chỉ huy của Vlasov, bao gồm khoảng 50.000 người.
Những người này đã chiến đấu chống lại Hồng quân chỉ trong ba tháng, từ tháng 2 đến tháng 4/1945, nhưng đã không thành công. Đức Quốc xã đã bị suy yếu vào thời điểm này. Sau thất bại của Đức, Vlasov và tất cả các sỹ quan chỉ huy của y đã bị Liên Xô bắt giữ, nhanh chóng bị xử tử và đi vào lãng quên. Không thể bào chữa cho những người giúp đỡ Đức Quốc xã, bất kể động cơ của họ là gì, Oleg Budnitsky nói. Theo ông này, chế độ Bolshevik là khủng khiếp và vô nhân đạo, nhưng chủ nghĩa phát xít, mà những người đó phục vụ, là xấu xa tuyệt đối./.
Theo CTV Lê Ngọc/VOV.VN (biên dịch)
RBTH
Bí mật về tổ điệp báo huyền thoại lớn nhất thế giới
Lãnh đạo tổ điệp báo ZORA là nhà tình báo Xô-viết gốc Hungary huyền thoại Sandor Rador - thường gọi là "chú Sandor".
Gần trăm người tham gia
Để chuẩn bị cho cuộc Chiến tranh Vệ quốc, Tổng cục Tình báo quân đội Liên Xô (GRU) đã xây dựng ở nhiều nước Tây Âu một loạt cơ sở tình báo. Trong số đó, công lao đầu thuộc về ZORA, đến mức sau này người ta nói rằng chiến tranh đã được giải quyết ở Thuỵ Sĩ - nơi đóng bộ phận đầu não của tổ điệp báo này.
Người trực tiếp đặt nền móng cho ZORA là Thiếu tá tình báo L. Anulov (bí danh Kostia). Khi Kostia được điều về Moscow (1938), anh để lại "cơ đồ" lúc ấy còn bé nhỏ cho Sandor Rador - nhà khoa học người Hungary, người đã cộng tác với GRU từ năm 1929. Được sự trợ giúp của hai cộng sự đắc lực là Pabor và Pie, cũng do Kostia để lại, Sandor đã cắm vững ở Thuỵ Sĩ, Đức, Áo... và dần mở rộng địa bàn.
Ngay trước chiến tranh, khi GRU chuyển tổ điệp báo SEVILIA do nữ tình báo viên người Ba Lan chỉ huy sang thuộc quyền chỉ đạo của Sandor, ZORA trở thành một lưới tình báo khổng lồ. Lưới điệp báo của Sandor có đến gần 100 người, hoạt động ở Geneve 19 người, ở Bern 15 người, ở Zurich 9 người, các thành phố khác của Thuỵ Sĩ 27 người, ở Đức 17 người, ở Áo 3 người...
Với quy mô và trên một địa bàn lớn như vậy, Sandor đã thể hiện khả năng tổ chức kiệt xuất. Hầu như ngày nào ông cũng gặp gỡ, tiếp xúc với tổ viên để thu nhận tài liệu, ra chỉ thị, tự xử lí thông tin, tự mã hoá trước khi chuyển về trung tâm và rồi lại tự mình giải mã các chỉ lệnh của Moscow.
Nhờ được tổ chức khéo léo và bảo mật cao, nên ZORA đã tồn tại được trong thời gian rất dài.
Lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô tại Berlin, Đức ngày 1/5/1945
Những chiến công của ZORA
Mờ sáng 17/6/1941 trên bàn làm việc của Tướng F. Golyakov, Tổng cục trưởng GRU, nằm sẵn một bức điện tối mật của Sandor, thông báo rằng nước Đức phát xít đã tăng cường lực lượng quân sự trên biên giới Xô - Đức và chuyển các sư đoàn Đức từ Hy Lạp đến Ba Lan. Và tới ngày 22/6, quân Đức tràn qua Liên Xô.
Tổng cộng, ZORA đã chuyển cho Moscow trên 3.000 điện báo. Phần lớn tin tức từ ZORA đều đáng tin cậy và khả năng dự báo cao. Những tin tức này đã giúp Hồng quân tiến hành hiệu quả các chiến dịch Stalingrad, Kursk, Dnieper... Cũng chính ZORA đã khai thác được bí mật xe tăng Tiger của Đức, chủng loại, thành phần các vũ khí hoá học mà quân phát xít định chế tạo và đưa vào sử dụng.
Tháng 5/1942, chỉ sau 1 tháng nhận nhiệm vụ, Sandor đã có câu trả lời cho Moscow về nguyên lí tạo phản ứng dây chuyền của urani và nguyên lí làm giàu urani, giúp đấy nhanh Dự án nguyên tử của Liên Xô. ZORA cũng biết rõ những trò chơi chính trị diễn ra sau lưng Liên Xô, như nội dung các cuộc hội đàm bí mật giữa Mỹ và nước Đức phát xít về một thỏa thuận riêng rẽ có hại cho Liên Xô.
ZORA bại lộ
Đầu năm 1943, Thiếu tướng SS Valter Selenberg - Cục trưởng Tình báo Quân sự Đức đã có tương đối đầy đủ dữ kiện về hoạt động của một tổ chức tình báo có đầu não tại Thuỵ Sĩ. Theo yêu cầu và chỉ dẫn của Selenberg, cảnh sát Thuỵ Sĩ bắt đầu tìm kiếm ba đài phát sóng đang hoạt động trên lãnh thổ nước này.
Ngày 25/9/1943, vị trí đặt máy phát đầu tiên được xác định. Đó là ngôi nhà trên phố Florisan thuộc quyền sở hữu của cặp vợ chồng Olga và Eduard Kharmen, các hiệu thính viên của Sandor. Vị trí chiếc máy phát thứ hai do Roza Boli phụ trách cũng bị phát hiện. Cảnh sát lập tức bố trí theo dõi hai nhà này. Rất cảnh giác và tinh ý, Sandor ra lệnh ngừng liên lạc và đưa máy phát ra khỏi nhà.
Tuy nhiên, an ninh Thụy Sĩ tiếp tục canh chừng và tiến hành vụ bắt giữ đầu tiên vào 1h30 ngày 14/10/1943. Đến cuối tháng 11, những thành viên chủ chốt của ZORA ở Thụy Sĩ bị bắt, riêng Sandor kịp trốn thoát.
Từ Thụy Sĩ, Sandor sang Pháp rồi được đưa về Moscow. Năm 1946, do một sự hiểu nhầm, Sandor bị Toà án đặc biệt kết án 10 năm tù vị tội hoạt động gián điệp. Năm 1956, Toà quân sự thuộc Toà án Tối cao Liên Xô huỷ bỏ bản án năm 1946 và kết thúc khởi tố vụ án vì "không đủ yếu tố cấu thành tội phạm".
Năm 1972, Liên Xô chính thức xin lỗi Sandor vì những sai lầm trong việc đánh giá kết quả hoạt động của ông tại Thuỵ Sĩ. Sandor được tặng huân chương "Chiến tranh Vệ quốc hạng nhất" và huân chương "Hữu nghị giữa các dân tộc".
Ông trở thành tiến sĩ, giáo sư Đại học Tổng hợp Budapest, nhiều năm là Cục trưởng Bản đồ kiêm Chủ tịch Uỷ ban địa lí của Viện Hàn lâm khoa học Hungary. Các đồng nghiệp nước ngoài rất yêu mến và quý trọng ông, còn người dân Budapest và các cựu đồng nghiệp GRU thì trìu mến gọi ông là "chú Sandor".
Theo Nguyên Phong (Vietnamnet)
Trùm phát xít Hitler và những chi tiết cực sốc trước khi bắn vào đầu tự sát Gia đình Hitler ngồi trên một chiếc ghế băng trong phòng, phía sau họ là bức tường trống từng treo bức chân dung Frederick. Eva là người chết trước, bằng thuốc độc. Lúc đó khoảng 3 giờ 30 chiều. Hitler lấy khẩu Walther 7,65 ly, khẩu súng luôn gắn bó với ông ta trong nhiều năm. Hitler đặt khẩu súng lên thái dương...