Vì sao giun đầu búa luôn bị coi là nỗi kinh hoàng tại nhiều quốc gia
Giun đầu búa là một trong những sinh vật kỳ lạ và nó đã nhận được rất nhiều sự chú ý của thế giới trong những năm gần đây.
Giun đầu búa là loài động vật ăn đêm cổ xưa
Giun đầu búa thuộc về một nhóm động vật cổ xưa được gọi là Geoplanidae, hay còn được biết đến với cái tên khác là giun dẹp trên cạn. Những sinh vật độc đáo này đã tiến hóa hàng trăm triệu năm trước để rời bỏ môi trường nước – nơi nhiều loài giun dẹp vẫn sinh sống cho tới tận ngày nay – để tìm kiếm sự sống trên cạn.
Theo Grunge, tính đến năm 2023, các nhà sinh vật học đã mô tả khoảng 910 loài giun dẹp trên cạn, mặc dù người ta biết rất ít về thói quen của những sinh vật kỳ quái này và còn nhiều bí ẩn nữa vẫn chưa được khoa học biết đến.
Được phân loại theo chi Bipalium – tạm dịch là “hai xẻng” và đề cập đến những cái đầu vô cùng kỳ lạ của chúng – giun đầu búa có kích thước tương đối lớn, với một số loài dài tới nửa mét. Tính đến năm 2023, có 62 loài giun đầu búa được mô tả, với nhiều loài có sọc và màu sắc khác nhau.
Một số loài giun đầu búa có đốm đen ở vị trí giống như mắt nhưng trên thực tế chúng không có mắt thật và chỉ có thể cảm nhận được ánh sáng và bóng tối.
Giun đầu búa chủ yếu sống ở các khu rừng nhiệt đới, vì chúng cần môi trường ẩm ướt, tương đối mát mẻ để giữ đủ nước. Nhưng trong những điều kiện thích hợp, chẳng hạn như sau những đợt mưa lớn, chúng có thể sẽ xuất hiện nhiều hơn. Giống như tất cả các loài giun dẹp trên cạn, chúng sống về đêm và hiếm khi được nhìn thấy vào ban ngày.
Thông thường, chúng dành cả ngày để ẩn mình dưới những tảng đá, khúc gỗ và lá rụng. Nếu không có những vệt chất nhờn giống như sên đặc trưng của chúng, hầu hết mọi người sẽ không bao giờ biết chúng đang ở xung quanh nhà mình.
Những kẻ săn mồi phàm ăn
Được coi là một trong những kẻ săn mồi hàng đầu trong rừng, giun đầu búa sẽ xuất hiện sau khi trời tối để săn giun đất, ốc sên, sên, cuốn chiếu và rận gỗ. Chúng lướt đi trên mặt đất bằng chất nhầy đặc và một cấu trúc đặc biệt gọi là “đế leo” – về cơ bản là một miếng đệm được bao phủ bởi một chùm lông nhỏ – và tuần tra tìm kiếm con mồi bằng cách từ từ di chuyển chiếc đầu hình đầu búa của chúng qua lại. Sử dụng các thụ thể đặc biệt nằm trong một đường rãnh ở mặt dưới của đầu, những con giun này xác định mùi hương và khó chặt mục tiêu săn đuổi của mình.
Khi một con giun đầu búa có mục tiêu, nó sẽ nhanh chóng tập trung vào con mồi của mình. Để bắt con mồi, giun đầu búa sẽ quấn cơ thể quanh nạn nhân của nó giống như một con trăn anaconda thu nhỏ, chúng sẽ nhốt con mồi trong chất nhờn dính.
Video đang HOT
Trong một nghiên cứu năm 2014 được công bố trên PLoS One, chúng cũng sử dụng một phương pháp mà các nhà sinh vật học gọi là “đóng nắp”, trong đó chúng xác định vị trí và nhấn chìm đầu của con mồi để ngăn chặn chúng chạy thoát. Một số loài thậm chí còn sử dụng nọc độc để săn những con mồi có kích thước lớn.
Giun đầu búa có thể tự nhân bản chính mình
Khi nói đến sinh sản, giun đầu búa có nhiều lựa chọn hơn rất nhiều loài động vật khác trên hành tunh của chúng ta. Tất cả các loài giun đầu búa đều lưỡng tính – nghĩa là mỗi con giun đầu búa đều sở hữu cả bộ phận sinh sản đực và cái, do đó, bất kỳ hai cá thể nào cũng có thể giao phối và sinh ra con cái. Sau khi giao phối, cả hai con giun đầu búa sẽ đẻ ra một vỏ trứng gọi là kén và những con giun búa nhỏ sẽ chui ra khỏi kén vào khoảng 21 ngày sau đó. Nhưng đây không phải là phương pháp ưa thích cho hầu hết các loài.
Phương thức sinh sản phổ biến nhất của giun đầu búa là “phân mảnh”. Bất cứ khi nào chúng thích, một con sâu đầu búa chỉ cần cắm đuôi của nó vào đất, vặn vẹo cơ thể và cắn đứt nó. Sau 7 đến 10 ngày, phần đuôi sẽ tự mọc đầu và trườn ra ngoài như một cá thể hoàn toàn mới. Trong thời gian này con giun ban đầu cũng tự mọc đuôi mới, điều này nghĩa là nó có thể lặp lại hành vi sinh sản đặc biệt này này vài lần mỗi tháng.
Giun đầu búa có độc
Trong một nghiên cứu năm 2014 được công bố trên PLoS One, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng một số loài giun đầu búa tạo ra một chất độc thần kinh cực mạnh gọi là tetrodotoxin, chất mà chúng có thể sử dụng như một cơ chế phòng thủ và để khuất phục con mồi. Trước nghiên cứu, các nhà sinh vật học tin rằng chỉ những động vật cao cấp hơn mới có thể tạo ra tetrodotoxin. Cho đến nay, giun đầu búa là loài động vật không xương sống trên cạn đầu tiên và duy nhất được biết là sử dụng nó.
Tetrodotoxin nổi tiếng là chất độc được sản xuất bởi các loài động vật nguy hiểm như bạch tuộc đốm xanh và sa giông da xù xì. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, tetrodotoxin có thể làm tắt quá trình truyền dẫn thần kinh và làm tê liệt đồng thời tất cả các cơ của cơ thể. Điều này ức chế hô hấp và chức năng tim và có thể nhanh chóng gây tử vong nếu không có sự can thiệp của y tế. Tệ hơn nữa là cho tới nay, tetrodotoxin vẫn là một trong những chất độc nguy hiểm nhất thế giới và nó không có thuốc giải độc.
Nhiều loài giun đầu búa là loài xâm lấn
Ban đầu, chúng chỉ sống trong các khu rừng nhiệt đới và ôn đới ẩm ướt ở Châu Á, Úc, New Zealand, Nam Mỹ và một số đảo ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, giun đầu búa hiện được tìm thấy phổ biến trên khắp thế giới, bao gồm cả các vùng của Châu Âu và Bắc Mỹ.
Bắt đầu từ năm 1878, các nhà sinh vật học đã chú ý đến những con giun khác thường này. Trên thực tế, một trong những loài xâm lấn phổ biến nhất thuộc loài giun đầu búa là Bipalium kewense, đã được phát hiện tại Kew Gardens của London, Anh
Thật không may, chúng ăn giun đất, rận gỗ, ốc sên và sên, tất cả đều là những sinh vật quan trọng về mặt sinh thái giúp tăng cường sức khỏe của đất, vì vậy cuộc xâm lược của chúng có khả năng gây ra thảm họa cho hệ sinh thái địa phương và các loài bản địa. Giun đầu búa đã âm thầm xâm chiếm nhiều khu vực mới trong nhiều thập kỷ.
Chúng có thể mang theo ký sinh trùng
Có rất nhiều lý do để lo lắng về giun đầu búa. Chúng có vẻ ngoài đáng sợ, nhầy nhụa, dường như bất khả chiến bại vì không có loài thiên địch và có thể gây hại cho hệ sinh thái địa phương. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hơn là chúng cũng có thể mang mầm lây nhiễm của một loại ký sinh trùng được biết là lây nhiễm sang người điển hình là giun phổi chuột.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, giun phổi chuột là một loại giun tròn ký sinh – thường lây nhiễm cho chuột nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa và hệ thần kinh trung ương của con người. Các triệu chứng nhiễm trùng bao gồm đau đầu, buồn nôn, cứng cổ, đau bụng, nôn mửa, cảm giác lạ ở tay chân và các vấn đề về mắt. Thậm chí đáng lo ngại hơn, trứng của giun tròn có thể mắc kẹt trong các mao mạch và gây ra phản ứng viêm nghiêm trọng trên toàn cơ thể.
Điểm danh những loài động vật có trái tim kỳ lạ nhất thế giới
Những loài động vật có trái tim kỳ lạ nhất thế giới sở hữu nhiều nét đặc trưng, từ kích thước, hình dáng cho đến tập tính sinh sống.
Thế giới động vật ẩn chứa nhiều điều thú vị và thông tin về những loài động vật có trái tim kỳ lạ nhất thế giới cũng nằm trong số đó. Do có kích thước cơ thể cùng nhiều đặc điểm cấu tạo khác nhau nên trái tim của mỗi loài động sẽ hình thành kiểu dáng lẫn đặc trưng riêng biệt.
Bạch tuộc và mực
Mực và bạch tuộc là loài động vật hiếm hoi sở hữu tới ba quả tim trong một cơ thể. Để duy trì hô hấp, mực và bạch tuộc sử dụng hai quả tim ở hai bên cơ thể để bơm oxy qua mạch máu. Trong khi đó, quả tim trung tâm sẽ vận chuyển oxy đến các cơ quan còn lại.
Bạch tuộc có vòng đời tương đối ngắn, có loài chỉ sống được 6 tháng. Vấn đề sinh sản được cho là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự ngắn ngủi trong vòng đời của loài động vật này.
Bạch tuộc và mực có đến 3 quả tim.
Loài ếch
Đa số ở các loài động vật, trái tim có nhiệm vụ lấy máu từ cơ thể đưa đến phổi để lấy oxy và cung cấp cho cơ quan khác. Hay như ở người, máu oxy và máu khử oxy được chứa trong các ngăn riêng biệt. Nhưng ở ếch, oxy không chỉ lấy từ phổi mà còn có ở da. Máu được oxy hóa tách biệt với máu đã khử oxy trong cùng một ngăn.
Kỳ lạ hơn là trái tim của loài ếch có thể đông lạnh. Tim của ếch gỗ hoàn toàn ngừng đập khi ếch bị đóng băng trong quá trình ngủ đông.
Loài gián
Trong số 4.600 loài gián có khoảng 30 loài sống trong môi trường gần con người. Khoảng bốn loài gián được biết đến là loài gây hại. Trái tim ở gián không cánh thường nhỏ hơn những con gián biết bay và trái tim của chúng đập với tốc độ tương tự trái tim của con người.
Gián có một hệ tuần hoàn mở, có nghĩa là máu của nó không chứa đầy các mạch máu. Trái tim của gián cũng không tự đập. Cơ bắp trong khoang sẽ mở rộng và co lại để giúp tim gửi hemolymph đến phần còn lại của cơ thể.
Cá voi
Trái tim của cá voi xanh giữ kỷ lục lớn nhất trong giới động vật sống ngày nay, có kích thước bằng một chiếc ô tô nhỏ và nặng khoảng 430 pound (430kg). Cũng giống như các loài động vật có vú khác, tim của cá voi có bốn ngăn. Khi lặn sâu xuống đại dương, nhịp tim của chúng chậm lại, chỉ còn 4 nhịp/phút.
Cá voi xanh vượt trội về kích thước so với một số sinh vật đã biến mất như khủng long. Một trong những chi khủng long lớn nhất trong Đại Trung Sinh là Argentinosaurus, nặng đến 90 tấn nhưng chỉ bằng với kích thước cá voi xanh trung bình.
Trái tim cá voi có trọng lượng rất lớn.
Giun đất
Giun đất là loài động vật không có trái tim. Thay vào đó, loài giun này có năm phần giả bọc quanh thực quản hỗ trợ thúc đẩy mạch máu lưu thông, nuôi sống cơ thể.
Chúng cũng không có phổi và hấp thụ oxy qua lớp da ẩm. Ngoài ra, giun đất còn có khả năng tái tạo phân đoạn bị mất. Tuy nhiên, khả năng này phụ thuộc vào từng loài riêng biệt.
Cá ngựa vằn
Cá ngựa vằn cũng là loài động vật có trái tim độc đáo. Ngoài một tâm nhĩ và một tâm thất, chúng còn có hai cấu trúc chưa từng thấy ở người đó là xoang tĩnh mạch (là một túi nằm phía trước tâm nhĩ) và ống động mạch (là một ống nằm ngay sau tâm thất).
Do mang cá rất mỏng manh và có thể bị hỏng nếu huyết áp quá cao nên trái tim của cá ngựa vằn được cấu tạo theo hình thức đặc biệt. Bên cạnh đó, tim cá ngựa vằn có thể tái sinh. Khi chúng bị tổn thương tim, cơ thể sẽ tái tạo một quả mới để thay thế.
Bí ẩn về loài giun Ecuador, dù là giun đất nhưng lại to bằng con rắn Phát hiện về loài giun này là một bước đột phá khoa học quan trọng và kể từ đó nó đã thu hút nhiều sự quan tâm và thảo luận trong cộng đồng khoa học. Việc phát hiện ra một con giun có kích thước bằng một con rắn ở chân núi lửa Sumaco ở Ecuador vào năm 2009 là một phát hiện...