Vì sao chưa nâng mức bảo hiểm t.iền gửi lên 100 triệu đồng?
Theo thống kê, với hạn mức 75 triệu đồng, Bảo hiểm t.iền gửi Việt Nam có khả năng bảo vệ toàn bộ được 87,32% số lượng người gửi t.iền.
Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, một số cử tri T.iền Giang kiến nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi Quyết định số 21 năm 2017 về hạn mức trả t.iền bảo hiểm theo hướng nâng hạn mức bảo hiểm t.iền gửi từ 75 triệu đồng lên 100 triệu đồng. Vì mức bảo hiểm hiện này quá thấp so với số t.iền họ gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm t.iền gửi là từ vài trăm triệu đồng đến vài tỉ đồng.
Trả lời cử tri, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết từ tháng 6-2017, Chính phủ đã có quyết định 21 nâng hạn mức trả t.iền bảo hiểm t.iền gửi từ mức 50 triệu đồng lên 75 triệu đồng. Việc quy định hạn mức chi trả bảo hiểm t.iền gửi được xem xét trên cơ sở năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm t.iền gửi; thực trạng tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam; quy mô t.iền gửi và thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Thống đốc dẫn lại các thông lệ quốc tế và khuyến nghị của Hiệp hội Bảo hiểm t.iền gửi Quốc tế cho rằng hạn mức chi trả bảo hiểm tiên gưi nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi t.iền (bảo vệ toàn bộ 90-95% người gửi t.iền) nhưng phải bảo đảm có một tỉ lệ đáng kể giá trị t.iền gửi tuân theo kỷ luật thị trường (nghĩa là chịu rủi ro theo biến động thị trường). Do đó, số t.iền được bảo hiểm t.iền gửi không tính theo tỉ lệ giá trị t.iền gửi của người gửi t.iền, mà tính theo số t.iền cụ thể.
Bảo hiểm t.iền gửi hiện đang áp dụng ở mức 75 triệu đồng cho một người gửi t.iền tại tổ chức tín dụng. Ảnh: NLĐ
Thống kê của NHNN, với hạn mức 75 triệu đồng, Bảo hiểm t.iền gửi Việt Nam có khả năng bảo vệ toàn bộ được 87,32% số lượng người gửi t.iền. Hạn mức này khá gần với khuyến nghị của Hiệp hội bảo hiểm t.iền gửi quốc tế.
Vì sao không nâng mức bảo hiểm t.iền gửi lên 100 triệu đồng? Lý giải của NHNN, để nâng hạn mức trả t.iền bảo hiểm cần phải nâng cao năng lực tài chính của Bảo hiểm t.iền gửi Việt Nam thông qua tăng phí bảo hiểm t.iền gửi. Tuy nhiên, nếu điều chỉnh tăng phí bảo hiểm trong bối cảnh nền kinh tế còn không ít khó khăn như hiện nay sẽ tăng thêm gánh nặng cho tổ chức tín dụng, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. NHNN sẽ xem xét trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh tăng hạn mức trả t.iền bảo hiểm t.iền gửi khi điều kiện cho phép.
Ngoài việc được nhận bảo hiểm t.iền gửi chi trả theo hạn mức quy định, người gửi t.iền còn có thể được nhận lại t.iền gửi theo thứ tự phân chia tài sản quy định tại Luật phá sản.
Video đang HOT
Chuyên gia tài chính, TS Bùi Quang Tín phân tích nghĩa vụ về bảo hiểm t.iền gửi phát sinh khi có tổ chức tín dụng phá sản. Và đến thời điểm hiện tại, phá sản là giải pháp cuối cùng trong các phương án tái cơ cấu của NH thương mại, chủ trương phá sản chỉ được xem xét cuối cùng sau khi các tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt không có khả năng thực hiện hoặc thực hiện không thành công các phương án khác như phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc chuyển giao bắt buộc.
“Đến thời điểm này, cách thức điều hành của Chính phủ và NHNN là áp dụng nhiều giải pháp, phương án tái cơ cấu NH thương mại nên chưa mang tính cấp thiết cho việc nâng hạn mức bảo hiểm từ 75 triệu đồng lên 100 triệu đồng. Nếu tăng hạn mức bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí đầu vào của tổ chức tín dụng, từ đó có thể tạo áp lực lên mặt bằng lãi suất, làm tăng lãi suất cho vay và gánh nặng chi phí lên thị trường” – TS Bùi Quang Tín nói.
Thống đốc NHNN khẳng định quan điểm xuyên suốt của nhà nước là phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi t.iền. Do đó, trong bất cứ trường hợp nào, phương án xử lý các tổ chức tín dụng đều phải đặt mục tiêu ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an toàn hệ thống, củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống NH, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi t.iền, không gây đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát. Quan điểm này cũng đã được thể hiện rõ trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng vừa được Quốc hội thông qua.
Thái Phương
Theo nld.com.vn
MBS đ.ánh giá môi trường vĩ mô năm 2019 sẽ không hỗ trợ mạnh mẽ cho TTCK như những năm trước
MBS đ.ánh giá môi trường kinh tế vĩ mô năm 2019 sẽ không hỗ trợ mạnh mẽ cho TTCK như trong năm 2018. Tuy nhiên, về cơ bản kinh tế vĩ mô vẫn ổn định và không có diễn biến nào vượt tầm kiểm soát. Mức độ tác động của của biến số vĩ mô 2019 lên TTCK sẽ là trung tính.
CTCK MBS vừa có báo cáo đ.ánh giá triển vọng vĩ mô cũng như TTCK Việt Nam năm 2019. Theo MBS, Năm 2019 vẫn được kỳ vọng là một năm tương đối ổn định của kinh tế Việt Nam mặc dù không xuất sắc như 2018 nhờ 3 động lực chính:
Đầu tiên là khu vực tư nhân năng động và hiệu quả cao đang dần chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế (chiếm 42% tổng đầu tư toàn xã hội) trong khi khu vực nhà nước kém hiệu quả ngày càng giảm.
Thứ hai, sự cải thiện về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong 2018 là đáng ghi nhận với việc đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh (cắt giảm 50% điều kiện kinh doanh) sẽ là động lực cho tăng trưởng năm sau.
Thứ ba, Chính Phủ và NHNN tiếp tục kiên định quan điểm điều hành lấy ổn định làm trọng tâm. Tổng cung tín dụng được duy trì hợp lý làm giảm nguy cơ xảy ra bong bóng tài sản. Trong khi đó kỷ luật tài khóa có dấu hiệu cải thiện khi tỷ lệ chi thường xuyên giảm và tỷ lệ chi đầu tư tăng.
GDP năm 2019 khó có thể cao hơn 2018
Theo MBS, tăng trưởng GDP năm 2019 dự kiến thấp hơn mức tăng của năm 2018 và đạt khoảng 6,7%. Nguyên nhân thứ nhất là do các áp lực về cân đối vĩ mô như lạm phát và tỷ giá nhiều khả năng sẽ tăng lên trong khi dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức cao là 130% khiến NHNN phải thận trọng hơn trong việc cung tín dụng cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng dự kiến năm 2019 chỉ khoảng 15% so với mức dưới 17% của năm 2018. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 2.036 tỷ đồng, tăng 7,7%, bằng 33% GDP, thấp hơn mức 34,1% của năm 2018.
Như vậy, nếu hiệu quả đầu tư của nền kinh tế không thể thay đổi cơ bản thì tăng trưởng của Việt Nam năm 2019 khó có thể cao hơn 2018.
Nguyên nhân thứ hai là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra, tác động làm giảm triển vọng tăng trưởng của cả hai quốc gia này khiến nhu cầu hàng hóa nhập khẩu giảm trong khi cả Mỹ và Trung Quốc đều là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ năm 2017 đạt 41,61 tỷ USD và sang thị trường Trung Quốc đạt 16 tỷ USD cho thấy tầm quan trọng của hai quốc gia này với Kinh tế Việt Nam.
Tỷ giá của Việt Nam vẫn đang neo giữ vào USD, trong khi giá trị của USD đang tăng lên, còn giá trị đồng t.iền của các quốc gia đang phát triển cạnh tranh với Việt Nam như Thái Lan, Indonesia, Philipin đều đang giảm mạnh. Nếu so sánh với đồng t.iền của các quốc gia này, mức độ giảm giá của VND so với USD sẽ thấp hơn, có nghĩa là chi phí sản xuất của Việt Nam sẽ cao hơn, dẫn tới giảm sức cạnh tranh.
Môi trường kinh tế vĩ mô năm 2019 sẽ không hỗ trợ mạnh mẽ cho TTCK như trong năm 2018
MBS cho rằng sẽ có nhiều yếu tố vĩ mô tác động tới TTCK năm 2019. Với các yếu tố quốc tế, xu hướng tác động chính yếu của kinh tế toàn cầu lên TTCK là xu hướng dịch chuyển dòng vốn. Mỹ sẽ tiếp tục quá trình bình thường hóa lãi suất đến hết năm 2019. EU chấm dứt gói nới lỏng định lượng vào cuối 2018 và bắt đầu nâng lãi suất vào giữa năm 2019. Hai động thái trên khiến xu hướng dòng t.iền rẻ đổ vào các thị trường tài sản toàn cầu sẽ không còn. Áp lực tăng lãi suất sẽ tăng cao trên toàn cầu.
Đồng USD và Euro tăng giá khiến sức ép lên các quốc gia mới nổi trong đó có Việt Nam tăng lên. Các Ngân hàng trung ương của các quốc gia này sẽ phải tăng lãi suất để bảo vệ đồng nội tệ.
Do đó, các TTCK toàn cầu sẽ trải qua một giai đoạn định giá lại và mức P/E sẽ giảm (hiện tại quá trình này đã xảy ra một phần và sẽ tiếp tục diễn ra trong 2019). Do đó, TTCK toàn cầu trong đó có Việt Nam sẽ khó có sự cải thiện về mặt định giá trong năm 2019.
Mức tăng trưởng của TTCK phải phụ thuộc vào sự tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp.
Trong nước, yếu tố vĩ mô đáng quan ngại tác động đến TTCK là yếu tố lạm phát. Sau 2 năm lạm phát được kìm giữ ở mức dưới 4% tạo thuận lợi cho TTCK, lạm phát nhiều khả năng sẽ vượt ngưỡng 4%. Với ngưỡng lạm phát này, lãi suất sẽ chịu sức ép gia tăng cộng thêm chính sách t.iền tệ sẽ có xu hướng thận trọng hơn do đó dòng t.iền đổ vào TTCK khó có khả năng dồi dào như 2018. Bên cạnh đó, áp lực lạm phát làm tỷ giá bất ổn cũng khiến các NĐT nước ngoài e ngại hơn khiến mức mua ròng dự kiến sẽ giảm.
MBS đ.ánh giá môi trường kinh tế vĩ mô năm 2019 sẽ không hỗ trợ mạnh mẽ cho TTCK như trong năm 2018. Tuy nhiên, về cơ bản kinh tế vĩ mô vẫn ổn định và không có diễn biến nào vượt tầm kiểm soát. Mức độ tác động của của biến số vĩ mô 2019 lên TTCK sẽ là trung tính.
Minh Anh
Theo Trí thức trẻ
Người dân cần thực sự hiểu về bảo hiểm t.iền gửi Nếu tổ chức tín dụng (TCTD) lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả t.iền gửi cho người gửi t.iền hoặc phá sản thì quyền lợi người gửi t.iền sẽ được bảo đảm thế nào? Phóng viên Báo điện tử Chính phủ đã phỏng vấn PGS. TS. Nguyễn Thị Mùi- Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, t.iền tệ...