Vì sao các ngân hàng ồ ạt phát hành trái phiếu?
Khát vốn huy động kỳ hạn dài để đáp ứng quy định về giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn hay cải thiện hệ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn) cho lộ trình đáp ứng chuẩn Basel 2 là những điều được đề cập khi bàn về lý do các ngân hàng ồ ạt phát hành trái phiếu thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn các lý do khác.
BIDV đang triển khai kế hoạch phát hành trái phiếu 7 năm và 10 năm nhằm huy động tổng cộng 4.000 tỷ đồng.
Dồn dập phát hành trái phiếu
Trong khối ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước, từ ngày 12/11/2018 đến ngày 11/12/2018, BIDV mở bán tổng cộng 400.000 trái phiếu kỳ hạn 7 năm và 10 năm, nhằm thu về 4.000 tỷ đồng. Mệnh giá trái phiếu là 10 triệu đồng/trái phiếu.
Trong đó, trái phiếu kỳ hạn 7 năm có khối lượng chào bán là 300.000 trái phiếu, trái phiếu 10 năm có khối lượng chào bán là 100.000 trái phiếu. Lãi suất trái phiếu kỳ hạn 7 và 10 năm luôn cao hơn lần lượt 0,8 -1,0% năm so với trung bình lãi suất tiền gửi tiết kiệm cá nhân kỳ hạn 12 tháng của Ngân hàng và kỳ hạn thực tế của trái phiếu sẽ rút ngắn tương ứng còn 2 năm, 5 năm khi BIDV mua lại trái phiếu trước hạn.
Từ ngày 31/10/2018 đến ngày 16/11/2018, Vietcombank đã có 7 lần phát hành trái phiếu với mệnh 100.000 đồng/trái phiếu, dành cho khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân, có kỳ hạn 6 năm, với lãi suất 7,475%/năm với tổng cộng khối lượng trái phiếu phát hành thành công 288,3 tỷ đồng.
Báo cáo tài chính quý III/2018 của các ngân hàng cho thấy, 16 ngân hàng có nợ xấu gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu tăng từ 0,4 – 1,3%, tùy ngân hàng.
Trong đó, các nhà đầu tư doanh nghiệp mua 1,085 triệu trái phiếu (tương ứng 108,5 tỷ đồng) và nhà đầu tư cá nhân mua vào 1,789 triệu trái phiếu (tương ứng 179,8 tỷ đồng).
Trước đó, Vietinbank cho biết đã phát hành thành công 450 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 2 năm trong đợt 2 năm 2018, lãi suất cố định 6%/năm.
Ở khối các ngân hàng thương mại cổ phần, MBBank đã hoàn tất phát hành trái phiếu kỳ hạn 5 năm 1 ngày với trị giá hơn 1.400 tỷ đồng. Hội đồng quản trị ACB cũng vừa phê duyệt phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ trong năm tài chính 2018 với tổng mệnh giá phát hành 2.200 tỷ đồng.
Trái phiếu có kỳ hạn 3 năm và là loại không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, không phải nợ thứ cấp và được đảm bảo bằng trái phiếu chính phủ thuộc sở hữu của ACB. Trái phiếu phát hành được áp dụng lãi suất cố định ở mức 6%/năm và được chi trả định kỳ 12 tháng một lần. Trái chủ được quyền bán lại trái phiếu sau 18 tháng kể từ ngày phát hành.
Mới đây, HDBank cũng cho biết sẽ thực hiện phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu đợt 3 trong năm 2018 để huy động vốn.
Video đang HOT
Thông tư 19: Đã giảm lực cú “phanh” gấp
Còn nhớ, từ đầu năm 2017, các ngân hàng đã phải triển khai các giải pháp huy động vốn trung và dài hạn để đáp ứng yêu cầu của Thông tư 06/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn giảm từ 60% về 50% vào năm 2017 và 40% vào năm 2018.
Giải pháp chung là tăng vốn điều lệ, hạn chế chia cổ tức tiền mặt và thực tế Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những chỉ đạo rất quyết liệt về việc không chia cổ tức bằng tiền mặt hỗ trợ vốn tự có cấp 1. Đồng thời với đó là phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi dài hạn để tăng vốn, nhưng chủ yếu sẽ vẫn tập trung vào phát hành trái phiếu chuyển đổi, bởi chứng chỉ tiền gửi không được tính vào vốn cấp 2.
Tuy nhiên, với Thông tư 19/2017/TT-NHNN ban hành ngày 28/12/2017, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn đã được điều chỉnh ở mức 45% vào năm 2018 và giảm về mục tiêu 40% vào năm 2019, thay vì ngay trong năm 2018.
Việc thay đổi này được thị trường đánh giá giúp giảm áp lực lên lãi suất huy động của các ngân hàng và các ngân hàng có thêm thời gian cơ cấu danh mục cho vay sang các khoản vay ngắn hạn phục vụ hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Các doanh nghiệp cũng có thời gian cân đối dòng vốn của mình. Rõ ràng, các ngân hàng đã có khoảng thời gian dài để chuẩn bị cho quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm xuống mức 45% từ 1/1/2018.
Trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần thừa nhận: “Với Thông tư 06/2016/TT-NHNN, việc giảm tỷ lệ về 40% vào năm 2018 là khó khăn vì ngân hàng không kịp cơ cấu lại danh mục cho vay cũng như dòng tiền. Nhưng với Thông tư 19/2017/TT-NHNN, NHNN đã hỗ trợ các ngân hàng không xáo trộn mạnh bởi một cú “phanh” gấp”.
Một câu chuyện nữa đó là từ tháng 2/2016, 10 ngân hàng do NHNN chỉ định đã chính thức bước vào thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu chuẩn Basel 2, bộ tiêu chuẩn không mới đối với các ngân hàng trong khu vực.
Bên cạnh 10 ngân hàng được chỉ định, không ít ngân hàng còn “xung phong” thực hiện thí điểm Basel 2. Thậm chí, cuối năm 2017, OCB là một trong số ít ngân hàng đã sớm công bố hoàn thành dự án Basel 2 nhằm nâng tầm quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Đặc biệt, VPBank vừa qua đã chính thức xin phép NHNN được áp dụng toàn phần tiêu chuẩn Basel 2 trong quản trị rủi ro từ đầu năm 2019, sớm 1 năm so với yêu cầu đặt ra của NHNN. Nếu được chấp thuận, VPBank sẽ là một trong những ngân hàng Việt Nam đầu tiên áp dụng tiêu chuẩn Basel 2.
Huy động vốn để làm gì?
Một chuyên gia kinh tế nêu quan điểm, không phủ nhận việc các ngân hàng phát hành trái phiếu ồ ạt thời gian qua nhằm giải quyết cơn “khát” vốn hay cải thiện hệ số CAR. Bên cạnh đó, huy động vốn còn để mở rộng thị trường và còn để đảm bảo cân bằng nguồn vốn, khi nợ xấu của nhiều ngân hàng đang có dấu hiệu nhích lên.
“Nợ cho vay ra đến thời hạn nào đó khách hàng phải trả nợ, tiền trả nợ đó quay về ngân hàng. Đây là tiền ngân hàng huy động từ khách hàng trước đây và bây giờ ngân hàng lấy tiền đó trả lại khách hàng.
Nợ xấu là đồng tiền cho vay ra không quay trở lại ngân hàng nữa, nhưng nợ đó vẫn còn trên sổ sách và vẫn còn là tài sản của ngân hàng. Ngân hàng phải huy động vốn mới để trả cho khách hàng khi khoản tiền gửi đáo hạn”, vị chuyên gia kinh tế nói.
Cũng theo vị chuyên gia trên, đây là câu chuyện rất quan trọng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện tại và là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng luôn phải huy động vốn với lãi suất cao.
Báo cáo tài chính quý III/2018 của các ngân hàng cho thấy, 16 ngân hàng có nợ xấu gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu tăng từ 0,4 – 1,3%, tùy ngân hàng. Nếu tính cả lượng nợ xấu vẫn nằm tại Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), nợ xấu nội bảng của các ngân hàng thương mại vào khoảng 145.000 tỷ đồng.
Nhuệ Mẫn
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Chạy đua phát hành trái phiếu: Ngân hàng đẩy áp lực cho tương lai
Khan vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, đang khiến các NH dồn dập phát hành trái phiếu. Huy động vốn bằng cách này giúp NH phần nào giảm được áp lực trước mắt, song lại phải đối phó với rủi ro trong tương lai.
BIDV vừa công bố phát hành 400.000 trái phiếu ra công chúng để tăng vốn hoạt động.
Ngân hàng càng to, nỗi lo càng lớn
Đầu tuần này, BIDV đã công bố phát hành 400.000 trái phiếu ra công chúng với mong muốn thu về 4.000 tỷ đồng để tăng vốn hoạt động. Không chỉ BIDV, mà một loạt ngân hàng khác, như Vietcombank, VietinBank, MB, VIB... cũng đã huy động hàng ngàn tỷ đồng qua kênh trái phiếu.
Chỉ tính trong quý IV/2018, các ngân hàng đã và sẽ huy động khoảng 10.000 tỷ đồng qua kênh trái phiếu. Cụ thể, Vietcombank đã huy động hơn 550 tỷ đồng trong 6 đợt huy động, VietinBank phát hành 550 tỷ đồng trái phiếu, MB cũng phát hành thành công 1.387,9 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm và 10 năm, HDBank sắp phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu, ACB dự kiến phát hành 2.200 tỷ đồng trái phiếu...
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế, sở dĩ các ngân hàng cấp tập phát hành trái phiếu để huy động vốn là nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tăng cao cuối năm. Bên cạnh đó, đây cũng là một giải pháp giúp các ngân hàng tăng vốn cấp 2, qua đó đáp ứng những tiêu chuẩn mới về quản trị rủi ro.
Nếu nhìn vào lượng tiền gửi và cho vay của các ngân hàng 9 tháng đầu năm, dễ hiểu tại sao ngân hàng lại cấp tập huy động vốn qua kênh trái phiếu.
Đơn cử, tại BIDV, kết thúc quý III/2018, cho vay khách hàng đạt tới 968.752 tỷ đồng, trong khi tiền gửi là 953.513 tỷ đồng. Tương tự, tại VietinBank, huy động vốn đạt 826.000 tỷ đồng, tăng 9,7%, trong khi cho vay đạt 892.000 tỷ đồng, tăng 12,8%. Thiếu tiền gửi khiến VietinBank trở thành một trong 3 ngân hàng đứng đầu về phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi dài hạn.
Tuy không rơi vào cảnh hụt vốn như VietinBank và BIDV, song Vietcombank cũng đang phải đối mặt với nhiều rủi ro khi dư nợ cho vay khách hàng tăng 15,5%, nhưng huy động vốn chỉ tăng hơn 9%.
Nhu cầu tín dụng tăng mạnh trong quý IV khiến nhiều nhà băng đang trong tình trạng đau đầu cân đối thanh khoản. Bên cạnh đó, chỉ còn hơn 1 tháng nữa (từ ngày 1/1/2019), tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ giảm từ 45% hiện nay xuống 40%. Điều này buộc các ngân hàng phải tăng tốc tìm nguồn vốn huy động, nếu không muốn bị hãm tín dụng. Trong bối cảnh tiền gửi tăng chậm, trái phiếu là con đường khả thi nhất.
Ngoài ra, áp lực tăng vốn cấp hai đang đè nặng cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng dồn dập phát hành trái phiếu. Hiện vốn tự có của nhiều ngân hàng rất thấp, tăng chậm, trong khi tín dụng tăng nhanh thời gian qua. Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng TMCP quốc doanh đang chạm ngưỡng tối thiểu (chỉ hơn 9%), trong khi vốn tự có lại tăng trưởng âm.
"Tăng vốn, cải thiện hệ số CAR đang là rủi ro lớn nhất của nhiều ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng TMCP quốc doanh", TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế nhận định.
Theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng, trước mắt, việc phát hành trái phiếu sẽ giúp các ngân hàng thoát hiểm khi nhiều thời hạn đã cận kề. Song về lâu dài, giải pháp này sẽ gây ra nhiều hệ lụy.
Rủi ro chực chờ
Rủi ro lớn nhất mà làn sóng phát hành trái phiếu mang lại cho nền kinh tế là lãi suất có thể dâng cao. TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, các ngân hàng phát hành trái phiếu chỉ khiến mặt bằng lãi suất "nhích lên một chút". Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lãi suất trên thị trường đã tăng mạnh ở nhiều kỳ hạn, nhiều ngân hàng, chứ không phải diễn ra cục bộ.
"Trước mắt, lãi suất tăng chưa gây hậu quả cho doanh nghiệp, song đây sẽ là áp lực lớn cho năm 2019", TS. Võ Trí Thành nhận định.
Đối với ngân hàng, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng có thể khiến lợi nhuận bị ảnh hưởng, vì lãi suất đầu vào tăng, song lãi suất đầu ra không thể tăng tương ứng.
Chưa kể, việc một số ngân hàng dự định phát hành trái phiếu để gọi vốn ở thị trường nước ngoài sẽ khiến gánh nặng nợ công tăng lên.
TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, nếu ngân hàng phát hành lượng lớn trái phiếu, đến thời điểm đáo hạn, áp lực trả lãi và gốc sẽ rất lớn. Khi đó, không loại trừ khả năng các ngân hàng lại phải đẩy lãi suất lên một đợt nữa để có vốn trả cho trái chủ. Vòng luẩn quẩn này khó chấm dứt nếu ngân hàng không có kế hoạch sử dụng vốn và đáo hạn đầy đủ.
Để giải quyết cơn khát vốn của các ngân hàng hiện nay, đặc biệt là các ngân hàng TMCP quốc doanh, theo TS. Võ Trí Thành, cách cấp bách nhất là Chính phủ cần cho phép các nhà băng này giữ lại một phần lợi nhuận để tăng vốn. Bên cạnh đó, cần tháo gỡ để các ngân hàng đẩy nhanh các thương vụ bán vốn, nhằm huy động được một nguồn lớn bên vững mới, điển hình như thương vụ BIDV bán 15% vốn cho KEB Hana hay Vietcombank bán 10% vốn cho đối tác nước ngoài.
Về lâu dài, các ngân hàng phải đẩy nhanh hơn nữa cơ cấu hoạt động theo hướng giảm thu từ tín dụng, tăng thu từ dịch vụ. Giảm cho vay các lĩnh vực có trọng số rủi ro cao như bất động sản, đồng thời tập trung cho vay sản xuất. Việc chuyển hướng này không chỉ giúp ngân hàng giảm áp lực vốn trung, dài hạn, mà còn giúp giảm áp lực lên hệ số CAR của các nhà băng.
Theo báo Đầu tư
Tài chính 24h: Đua nhau phát hành trái phiếu, ngân hàng đối mặt áp lực trong tương lai TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, việc phát hành trái phiếu kỳ hạn dài sẽ giúp những nhà băng này giải quyết được một số vấn đề cấp bách hiện tại, tuy nhiên trong tương lai sẽ phải đối mặt với không ít áp lực ảnh hưởng tới lợi nhuận. Ảnh minh họa. Đua nhau phát hành...