“Vi khuẩn ăn t.hịt n.gười” trong mùa mưa nguy hiểm như thế nào?
Trên thế giới, các loại “ vi khuẩn ăn t.hịt n.gười” đang tái xuất, nhất là trong bối cảnh mưa bão kéo dài, cướp đi nhiều sinh mạng.
Đặc biệt là hai loại khuẩn nguy hiểm, đó là Burkholderia pseudomallei gây bệnh Whitmore và “sát thủ thầm lặng” mang tên Vibrio.
“Vi khuẩn ăn t.hịt n.gười” là gì?
“Vi khuẩn ăn t.hịt n.gười” (Flesh-eating bacteria), gọi tắt FEB là cụm từ để nói về bản chất là các vi khuẩn gây hiện tượng viêm cân mạc hoại tử (Necrotizing Fasciitis) hay NF, chứ thực tế không có vi khuẩn nào ăn t.hịt n.gười theo đúng nghĩa đen.
Viêm cân mạc hoại tử là một dạng nhiễm khuẩn sâu dưới da không thường gặp, tiến triển rất nhanh, do độc tố của vi khuẩn gây viêm và phá hủy các mô liên kết, mô mỡ và mô cơ.
Loại vi khuẩn gây viêm NF là liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A (group A beta hemolytic streptococcal – GABHS), vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây bệnh Whitmore (Melioidosis) hiện đang bùng phát tại tại các tỉnh miền Trung Việt Nam.
Burkholderia pseudomallei sống trong môi trường tự nhiên, gây áp xe, hoại tử nhiều cơ quan trong đó có da. Đây là bệnh ít gặp, không bùng phát thành dịch. Tuy nhiên, nó tiến triển rất nghiêm trọng, t.ử v.ong cao, đặc biệt với những người mắc bệnh mãn tính.
Viêm NF được phân làm hai loại, loại I hay type I là do nhiễm khuẩn hỗn hợp, thường kết hợp giữa một loài vi khuẩn yếm khí với một hoặc nhiều loại vi khuẩn yếm khí tùy nghi. NF type II là do nhiễm liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A, giữa hai loại viêm NF, thì viêm type II chiếm đa số.
Con đường nhiễm FEB là xâm nhập vào cơ thể qua các vết thương hở, đôi khi xâm nhập qua các vết cắt nhỏ, vết trầy xước, côn trùng cắn, hình xăm, phẫu thuật… Trong một số trường hợp, con đường nhiễm vi khuẩn gây viêm NF không rõ ràng. Khi đã xuất hiện, NF thường tiến triển nhanh và phá hủy mô liên kết, mô mỡ và mô cơ.
Khuẩn gây bệnh Withmore
Melioidosis hay Whitmore là bệnh lây nhiễm gây ra bởi vi khuẩn gram âm Burkholderia pseudomallei. Được tìm thấy trong nước bẩn, đất, lây lan sang người và động vật qua tiếp xúc trực tiếp với nguồn ô nhiễm. Vi khuẩn này còn được quan tâm đến như là một tác nhân tiềm năng trong chiến tranh sinh học và k.hủng b.ố sinh học.
Whitmore có nhiều điểm tương đồng với một bệnh ở loài ngựa, lây qua người từ gia súc bị nhiễm bệnh. Bệnh phổ biến ở khu vực Đông Nam Á và Bắc Úc, Nam Thái Bình Dương, Châu Phi, Ấn Độ, và Trung Đông.
Theo Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC), các loại vi khuẩn gây bệnh được tìm thấy trong đất, ở các cánh đồng lúa, và các vùng nước tù đọng trong khu vực. Người nhiễm bệnh do hít phải bụi nhiễm vi khuẩn hay khi tiếp xúc với đất bị ô nhiễm qua các vết trầy xước ngoài da. N.hiễm t.rùng thường xảy ra trong mùa mưa.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, 80% những người bị bệnh Whitmore có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ, điều đó đồng nghĩa Whitmore có thể là một n.hiễm t.rùng cơ hội.
Như nhóm người mắc bệnh đái tháo đường, người nghiên rượu, bệnh thận hoặc bệnh phổi mạn tính, người sử dụng corticoid, bệnh ung thư. Bệnh đái tháo đường có tỷ lệ mắc bệnh cao 37 – 60%, điều này cho thấy insullin có thể trực tiếp ảnh hưởng đến vi khuẩn B. Pseudomallei.
Bệnh Whitmore khó lây từ người sang người, thường có các triệu chứng lâm sàng khác nhau và do vậy dễ bị bỏ sót hoặc nhầm với bệnh lao và các bệnh lý viêm phổi thông thường. Thời gian ủ bệnh của Whitmore trung bình 9 ngày, đôi khi kéo dài tới 3 tuần, thậm chí có ca dài tới hàng chục năm. Tỷ lệ tái của Whitmore vào khoảng 1/16 ca, 1/4 trường hợp bệnh tái lại là do tái nhiễm, với số còn lại là do tái phát từ một ổ nhiễm tồn tại dai dẳng.
Theo CDC, hiện chưa có vắc xin phòng bệnh Whitmore, nên việc phòng tránh là rất quan trọng thông qua vệ sinh môi trường sạch sẽ, sát khuẩn kịp thời nếu bị vết thương ngoài da. Nên đi khám ngay nếu phát hiện dấu hiệu nghi ngờ.
Video đang HOT
Hạn chế tiếp xúc với tác nhân gây bệnh, bao gồm đất hoặc nước bùn lầy, đặc biệt là những nơi có ô nhiễm nặng. Trang bị đầy đủ giày, dép và găng tay đối với những người thường xuyên phải làm việc ngoài trời, tránh tiếp xúc trực tiếp với đất và nước nhiễm bẩn.
Nếu bắt buộc phải tiếp xúc thì phải sử dụng băng chống thấm và cần đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, rửa sạch trước và ngay sau khi tiếp xúc. Những người mắc các bệnh mãn tính như đái tháo đường, suy giảm miễn dịch cần được điều trị ổn định, bảo vệ các tổn thương để ngăn ngừa nguy cơ nhiễm khuẩn.
Nếu nghi ngờ mắc phải các triệu chứng bệnh, cần đến cơ sở y tế để được thăm khám, phát hiện vi khuẩn gây bệnh và điều trị kịp thời. Mặc dù ít gặp và không lây lan trực tiếp từ người sang người, nhưng công tác phòng tránh bệnh Whitmore vẫn cần được thực hiện để hạn chế khả năng mắc phải những triệu chứng nghiêm trọng của bệnh, nhất là với những đối tượng có nguy cơ cao.
“Sát thủ thầm lặng”
Theo CDC nhóm người có nguy cơ t.ử v.ong cao nhất thuộc diện mắc bệnh gan, ung thư, đái tháo đường, HIV và Thalassemia (bệnh thiếu m.áu di truyền ở vùng Đại Trung Hải).
Theo CDC, vi khuẩn Vibrio thường gây ra các triệu chứng tiêu hóa như tiêu chảy, nôn mửa và đau bụng. Nhưng những người có vấn đề về y tế như bệnh gan, tiểu đường, rối loạn dạ dày hoặc các tình trạng khác mà nhiễm khuẩn thì hệ miễn dịch sẽ bị suy yếu nhanh chóng, dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng, thậm chí t.ử v.ong.
Đầu năm 2018, một phụ nữ Texas đã c.hết sau khi ăn hàu sống khi đi nghỉ ở Louisiana. Vài ngày sau, cô rơi vào tình trạng khó thở, những vết loét và phát ban phát triển ngày càng nặng nề. Một lần tại bệnh viện, cô được chẩn đoán bị bệnh vẩy nến, một bệnh n.hiễm t.rùng do vi khuẩn Vibrio gây ra.
Do tính chất của các vết loét do nhiễm khuẩn Vibrio, vi khuẩn này thường được gọi là vi khuẩn ăn t.hịt n.gười. Theo CDC, bệnh do Vibriosis gây ra lại tách biệt khỏi viêm hoại tử thường được gọi là n.hiễm t.rùng ăn thịt, do vi khuẩn thuộc nhóm A strep, E. coli và staph.
CDC ước tính khoảng 52.000 trường hợp này là do ăn thực phẩm bị ô nhiễm, chủ yếu là các loại động vật có vỏ sống hoặc chưa nấu chín. Khoảng 95% các ca n.hiễm t.rùng nghiêm trọng tại Mỹ là do ăn sò sống vùng Vịnh do sò ở đây đều mang khuẩn Vibrio, nhất là trong những tháng mùa hè.
Triệu chứng duy nhất là nôn ói và tiêu chảy. Tuy nhiên, ngoài ăn sò sống, n.hiễm t.rùng cũng có thể xảy ra khi phơi nhiễm vết thương hở với nguồn nước bị ô nhiễm, nhất là nước lợ, nước mặn, nhưng cơ chế lây nhiễm này ít phổ biến hơn.
Vibrio vulnificus là khuẩn gram âm có khả năng di động hình que cong thuộc chi Vibrio, có liên quan rất mật thiết với khuẩn V. cholerae, tác nhân gây bệnh tả. Vibrio vulnificus (Vibrio) là một trong các loài Vibrio (có khoảng 12 loài Vibrio gây bệnh ở người, quen thuộc hơn cả là Vibrio cholerae và Vibrio parahaemolyticus gây n.hiễm t.rùng tiêu hóa cấp tính với biểu hiện là tiêu chảy nghiêm trọng), thuộc họ Vibrionaceae.
Theo CDC, Vibrio là khuẩn nguy hiểm nên việc điều trị kịp thời là yêu cầu quan trọng nhất. Người khỏe mạnh không cần phải tránh nước hoặc tránh xa hải sản, tuy nhiên, khi có vết thương mở hoặc có hệ miễn dịch yếu nên tránh xa với môi trường nước biển nhiễm khuẩn và hải sản tươi sống.
Có một thực tế, chúng ta có thể bảo vệ sức khỏe của mình bằng cách ăn hàu được nấu chín. Nhưng hàu sống hiện nay mới là món khoái khẩu, và điều ấy vô hình trung dẫn đến những mối nguy sức khỏe không mong muốn như việc bị vi khuẩn ăn t.hịt n.gười tấn công.
Theo FDA, nhiệt độ nấu chín là thứ duy nhất có thể t.iêu d.iệt được vi khuẩn Vibrio, từ đó khuyến cáo mọi người hãy ăn hàu đã nấu chín để tránh tổn hại sức khỏe. Ăn hàu sống cũng là một thủ phạm chính trong việc lây lan viêm gan A và norovirus – thường được gọi là bệnh cúm dạ dày. Cả hai bệnh n.hiễm t.rùng đều có thể gây buồn nôn, nôn và đau bụng.
Các xét nghiệm cần thiết nam giới không nên bỏ qua
Kiểm tra chỉ số đường huyết, đo men gan, nội soi đại tràng, kiểm tra da là những xét nghiệm cần thiết nam giới nên thực hiện thường xuyên để tầm soát nguy cơ mắc bệnh.
Nam giới cần chủ động về sức khỏe của mình - bằng cách thực hiện các tầm soát về tình trạng và bệnh nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là bạn sẽ dành ít thời gian hơn ở phòng khám. Tùy thuộc vào t.uổi tác, t.iền sử gia đình và các yếu tố lối sống, nam giới cần xét nghiệm vào những thời điểm khác nhau trong đời.
Bệnh tiểu đường
Theo Health Magazine, tiểu đường là căn bệnh mạn tính gây ra bởi lượng đường trong m.áu cao. Tiểu đường nếu không được kiểm soát có thể dẫn đến bệnh tim và đột quỵ, bệnh thận, mù lòa do tổn thương các mạch m.áu của võng mạc, tổn thương thần kinh và liệt dương.
Bạn có thể không bao giờ cần tầm soát bệnh tiểu đường nếu duy trì cân nặng hợp lý và không có các yếu tố nguy cơ khác của bệnh như cholesterol hoặc huyết áp cao.
Nhưng đối với hầu hết đàn ông trên 45 t.uổi - đặc biệt là những người thừa cân - xét nghiệm đường huyết rất cần thiết. Những người này cần làm xét nghiệm chỉ số đường huyết 3 năm một lần.
Tuy vậy, Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ khuyến cáo nam giới dưới 45 t.uổi cũng cần tầm soát bệnh tiểu đường, đặc biệt nếu có t.iền sử gia đình mắc bệnh, nồng độ cholesterol hoặc huyết áp cao.
Nam giới nên đo huyết áp, kiểm tra nồng độ cholesterol trong m.áu thường xuyên. Ảnh: Medlife.
Cholesterol trong m.áu và huyết áp
Cao huyết áp, lượng cholesterol cao là nguyên nhân số một gây đột quỵ và các bệnh về tim ở nam giới.
Tất cả nam giới từ 35 t.uổi trở lên nên kiểm tra mức cholesterol trong m.áu thường xuyên. Nam giới sử dụng t.huốc l.á; thừa cân hoặc béo phì; có t.iền sử gia đình bị đau tim trước 50 t.uổi; hoặc mắc bệnh tiểu đường, huyết áp cao nên kiểm tra cholesterol sớm hơn ở t.uổi 20.
Nam giới cũng cần kiểm tra huyết áp thường xuyên, đặc biệt những người có yếu tố nguy cơ tim mạch. Huyết áp cao là nguy cơ lớn nhất đối với bệnh tim và có thể gây ra các tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khác. Huyết áp bình thường là dưới 120/80, huyết áp cao là trên 140/90. Bạn hãy hỏi bác sĩ tần suất nên kiểm tra huyết áp của mình.
Đo men ga
Theo Healthline, nam giới thường có xu hướng tiêu thụ nhiều bia, rượu hơn nữ giới, dẫn tới tỷ lệ mắc các bệnh về gan cao hơn. Vì vậy, xét nghiệm nồng độ men gan là bài kiểm tra quan trọng để phát hiện sớm các bệnh nguy hiểm như ung thư, viêm gan và chứng rối loạn đi kèm.
Nội soi đại tràng
Hầu hết bệnh ung thư ruột kết phát triển từ các khối u được gọi là polyp trên bề mặt bên trong của ruột kết. Tìm và loại bỏ các polyp đại tràng trước khi chúng chuyển thành ung thư là chìa khóa quan trọng.
Vì vậy, tất cả nam giới nên được tầm soát ung thư đại trực tràng (ruột kết hoặc trực tràng) trước t.uổi 50. Những người có t.iền sử gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng nên nội soi càng sớm càng tốt. Một số xét nghiệm khác nhau có thể giúp phát hiện ung thư ruột kết, nhưng nội soi đại tràng vẫn là phương pháp tiêu chuẩn.
Xét nghiệm chỉ số PSA
Theo Webmd, chỉ số PSA (kháng nguyên đặc hiệu của tuyến t.iền liệt) là xét nghiệm m.áu để chẩn đoán các bệnh liên quan đến tuyến t.iền liệt.
Ung thư tuyến t.iền liệt là loại ung thư phổ biến nhất được tìm thấy ở nam giới Mỹ sau ung thư da. Nó là loại ung thư phát triển chậm, nhưng vẫn có nhiều trường hợp tiến triển mạnh. Vì vậy, xét nghiệm tầm soát có thể giúp tìm ra bệnh sớm.
Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo nam giới nên bắt đầu tầm soát về vấn đề này khi:
- 50 t.uổi đối với nam giới có nguy cơ trung bình.
- 45 t.uổi đối với nam giới có nguy cơ mắc bệnh cao.
- 40 t.uổi cho nam giới có t.iền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến t.iền liệt.
Xét nghiệm chỉ số PSA giúp nam giới tầm soát và phát hiện sớm ung thư tuyến t.iền liệt. Ảnh: H ealthmagazine.
Khám t.inh h.oàn
Đây là xét nghiệm sức khỏe định kỳ quan trọng của người đàn ông. Một số bác sĩ khuyên nam giới nên tự kiểm tra các cục u hoặc những thay đổi về kích thước, hình dạng của t.inh h.oàn.
Ung thư t.inh h.oàn thường gặp ở nam giới trong độ t.uổi 20-54. Nó có thể được chữa khỏi, đặc biệt nếu được phát hiện sớm.
Kiểm tra da
Kiểm tra da thường xuyên để biết bất kỳ thay đổi nào bao gồm hình dạng, màu sắc và kích thước. Nó không chỉ liên quan vấn đề sắc đẹp, thẩm mỹ, mà còn rất cần thiết cho sức khỏe.
Ung thư da cũng có thể ảnh hưởng nam giới ở mọi lứa t.uổi. Phương pháp điều trị sẽ hiệu quả hơn khi ung thư da được phát hiện sớm.
Nam giới có thể mắc nhiều loại ung thư da, nguy hiểm nhất là khối u ác tính của ung thư tế bào đáy, tế bào hắc tố và ung thư da tế bào vảy. Những loại này xảy ra phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ. Các rủi ro bao gồm tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, sạm da và cháy nắng.
HIV
HIV là virus gây ra bệnh AIDS. Nó lây lan từ người bệnh qua m.áu hoặc các chất dịch cơ thể khác. Các phương pháp điều trị có thể ngăn ngừa nhiễm HIV trở thành AIDS, dù những loại thuốc này có tác dụng phụ nghiêm trọng.
Nhiều người không biết mình bị nhiễm HIV. Một loạt các xét nghiệm m.áu có thể kiểm tra HIV như ELISA hoặc EIA. Nó tìm kiếm các kháng thể chống lại HIV trong m.áu. Nếu bạn nghi ngờ bị phơi nhiễm với HIV, hãy hỏi bác sĩ về các xét nghiệm cần thiết.
Lực lượng Đặc nhiệm về Dịch vụ Dự phòng Mỹ khuyến cáo tất cả nam giới từ 15 đến 65 t.uổi nên sàng lọc HIV ít nhất một lần. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bạn quan hệ t.ình d.ục không an toàn, sử dụng thuốc tiêm hoặc truyền m.áu từ năm 1978 đến 1985.
Mở ra hy vọng chữa khỏi "căn bệnh thế kỷ" Theo các nhà khoa học, việc phát hiện ra một nhóm lớn người có khả năng kháng lại virus HIV tự nhiên mà không cần dùng thuốc là dấu hiệu cho thấy hy vọng chữa khỏi căn bệnh này trong tương lai. Ảnh minh họa. Ảnh: Getty Images Một nghiên cứu trên 10.457 người nhiễm HIV, trong giai đoạn năm 1987-2019 cho thấy...