Vận dụng các FTA thúc đẩy xuất khẩu – Bài 2: Thách thức đáp ứng tiêu chuẩn mới
Lợi ích mà các FTA mang lại được minh chứng bằng các con số kim ngạch xuất khẩu ấn tượng qua từng năm; những doanh nghiệp nhanh nhạy đã được hưởng lợi nhưng việc vận dụng các FTA của doanh nghiệp Việt trong bối cảnh thế giới nhiều biến động bất ngờ cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Năng lực cạnh tranh thấp
Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên – Bộ Công Thương cho biết, dù giá trị xuất khẩu sang các thị trường có FTA mới như: EU, Anh, Canada, Mexico tăng trưởng tốt, nhưng tỷ trọng của các thị trường này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chưa tăng, thậm chí một số thị trường còn khá khiêm tốn. Thêm vào đó, tỷ lệ tận dụng các FTA cũng rất thấp, cụ thể, tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong EVFTA là 20%, UKVFTA là hơn 22% và CPTPP mới chỉ là 6%.
Theo ông Ngô Chung Khanh, có rất nhiều yếu tố cản trở doanh nghiệp tận dụng ưu đãi từ các FTA nhưng năng lực cạnh tranh hạn chế đang là lực cản lớn nhất, tiếp đến là thiếu thông tin về các FTA và những biến động bất định của thị trường. Kết quả khảo sát của Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam năm 2022 cho thấy: hơn 46% số doanh nghiệp được hỏi cho biết gặp trở ngại về năng lực cạnh tranh; hơn 40% doanh nghiệp thiếu thông tin cụ thể về các cam kết và cách thức áp dụng FTA; gần 47% doanh nghiệp lo ngại các yếu tố biến động của thị trường.
Phân tích kỹ hơn về năng lực đáp ứng của doanh nghiệp, bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đánh giá, sau hơn 2 năm thực thi EVFTA tốc độ tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào EU vẫn chưa tương xứng với triển vọng phát triển hợp tác thương mại giữa hai bên. Bên cạnh những ảnh hưởng khách quan từ dịch bệnh, rất nhiều doanh nghiệp Việt gặp những khó khăn trong quá trình tiếp cận thị trường EU và thực thi các quy định tại EVFTA. Một trong những khó khăn lớn nhất họ gặp phải chính là việc áp dụng quy tắc xuất xứ.
Theo đó, để được hưởng các ưu đãi thuế quan trong EVFTA, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng các quy định về xuất xứ. Song, nhiều doanh nghiệp vẫn còn tỏ ra lúng túng khi xử lý hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), thậm chí còn thiếu kiến thức và năng lực thay đổi sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu đưa ra từ phía khách hàng EU. Đó chính là lý do dù quy mô thị trường EU rất lớn với giá trị nhập khẩu lên tới 2.500 tỷ USD hàng hóa mỗi năm nhưng các ngành hàng xuất khẩu, kể cả mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam vẫn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu nhập khẩu của thị trường này.
Một điểm yếu khác mà doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành nông lâm thuỷ sản Việt Nam nhận thấy chính là tỷ lệ hàng xuất khẩu được chế biến sâu và có thương hiệu còn rất thấp. Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho rằng, doanh nghiệp Việt chưa tận dụng hết cơ hội khi xuất khẩu sang các thị trường lớn có FTA như EU, Hoa Kỳ vì hầu hết sản phẩm được xuất thô hoặc sơ chế, gia công cho thương hiệu nước ngoài khiến hàng Việt chưa được người tiêu dùng nhận diện nhiều. Thêm vào đó, bản thân doanh nghiệp Việt cũng chậm thay đổi để thích ứng và tận dụng các cơ hội, ưu đãi.
Video đang HOT
Đơn cử như trường hợp của một doanh nghiệp xuất khẩu tôm gần đây đã mất cơ hội xuất khẩu đi thị trường EU chỉ vì từ chối thay đổi khay nhựa đóng gói. Ngay lập tức đã có đã có nhà cung cấp khác mua sản phẩm của Thái Lan rồi đóng khay và nhanh chóng xuất khẩu.
Tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng cao
Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ phân tích, bên cạnh những thuận lợi về cắt giảm thuế quan, doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối diện với nhiều quy định phi thuế quan ngặt nghèo hơn từ các thị trường FTA đặc biệt là các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA. Đáng chú ý là việc siết chặt các vấn đề về môi trường/khí hậu, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững. Xu hướng này được nhận định sẽ tác động lớn đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian tới, gia tăng thêm hàng rào về mặt kỹ thuật và hành chính đối với cả các mặt hàng từ nông nghiệp đến công nghiệp.
Đơn cử như tại thị trường EU, dệt may là một trong những nhóm sản phẩm chủ lực bị tác động đáng kể nhất khi sẽ phải tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn ngặt nghèo hơn với việc mới đây EU đã công bố chiến lược dệt may tuần hoàn. Trong khi đó, mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng cần phải đáp ứng các điều kiện như giấy phép Thỏa thuận đối tác tự nguyện/Quản trị rừng và lâm nghiệp (VPA/FLEGT), giấy phép CITES, tiếp đó là các tiêu chuẩn ESG (Environmental – Social – Governance), phát thải CO2…
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Vina T&T Group chia sẻ, việc xuất khẩu rau quả vào các thị trường FTA thì vấn đề thuế quan chỉ là một phần. Hiện vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam đang vướng đó chính là các hàng rào kỹ thuật. Để có thể tham gia sâu vào các thị trường, doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ nghiêm các cam kết, tiêu chuẩn chất lượng.
Lấy ví dụ, thị trường EU tưởng “dễ mà khó, khó mà dễ” bởi hàng hóa xuất khẩu vào EU không cần trải qua quá trình đàm phán như một số thị trường khác. EU cho phép nhập khẩu tất cả các loại trái cây vào nhưng họ kiểm soát rất chặt chẽ hơn 30 chỉ tiêu dư lượng thuốc bảo vệ thực vật các loại. Chỉ cần 1 lô hàng bị phát hiện dư lượng vượt quá ngưỡng cho phép thì toàn bộ lô hàng sẽ bị trả về hoặc tiêu huỷ và mặt hàng đó sẽ bị dừng nhập khẩu.
Đối với thuỷ sản, một trong những lực cản lớn nhất tại thị trường EU thời gian qua chính là cảnh báo “thẻ vàng” về khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Nhưng không chỉ có EU mà nhiều thị trường khác cũng bắt đầu áp dụng truy xuất nguồn gốc thuỷ hải sản khai thác.
Theo Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản (NAFIQAD), từ 1/12/2022, Nhật Bản sẽ áp dụng kiểm soát IUU Trong toàn bộ quá trình chuỗi và đảm bảo truy xuất nguồn gốc đối với thủy sản Việt Nam. Các lô hàng thủy sản và sản phẩm chế biến từ nguyên liệu thuộc 4 loại thủy sản là mực ống và mực nang, cá thu đao Thái Bình Dương, cá thu mackerel và cá trích sẽ phải kèm theo giấy chứng nhận khai thác hoặc xác nhận cam kết khi xuất khẩu vào Nhật Bản.
Còn theo thống kê của Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về Vệ sinh dịch tễ và Kiểm dịch động thực vật Việt Nam (Văn phòng SPS Việt Nam), chỉ trong tháng 11/2022 Văn phòng SPS Việt Nam đã tổng hợp được 115 thông báo của thành viên WTO; trong đó bao gồm 82 dự thảo và 33 văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực quy định về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS) có thể ảnh hưởng tới mặt hàng nông, lâm và thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
Doanh nghiệp thích ứng nhanh với điều kiện từ Hiệp định CPTPP
Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam sang các nước thành viên CPTPP đã có bước nhảy vọt đáng kể, đặc biệt khu vực châu Mỹ như Canada, Mexico, Peru... Điều này thể hiện khả năng thích ứng, bắt nhịp nhanh với các điều kiện CPTPP mang lại.
Hàng hóa xuất khẩu Việt Nam sang các nước thành viên CPTPP đã có bước nhảy vọt đáng kể. Ảnh minh họa: Mạnh Linh/TTXVN
Thống kê cho thấy, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các thị trường thuộc khối CPTPP năm 2021 đều ghi nhận mức tăng trưởng dương. Tiêu biểu như Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico, Chile đều ghi nhận mức tăng trưởng mạnh. Ngoài ra, 3 thị trường còn lại là Peru, Brunei và New Zeland tuy tăng trưởng cao nhưng giá trị tuyệt đối trong giao dịch thương mại còn thấp.
Riêng 7 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP đạt 31,47 tỷ USD, tăng 21,43 % so cùng kỳ năm 2021 và chiếm 14,48% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam...
Nhận định về việc thực thi Hiệp định CPTPP đang mang lại những kết quả tích cực trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, ông Tô Hoài Nam-Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nhấn mạnh, đây là giá trị và lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp cần khai thác một cách nghiêm túc, từ đó gia tăng thêm cơ hội để tiếp cận nhiều thị trường mới ở khu vực châu Mỹ.
Theo ông Tô Hoài Nam, nếu tiếp cận ở góc độ doanh nghiệp, có thể nói sau khoảng 3 năm, doanh nghiệp đã thể hiện được khả năng vươn lên, thích ứng trong điều kiện bình thường mới để tận dụng, khai thác hiệu quả Hiệp định CPTPP để gia tăng xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường thành viên trong nội khối...
Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn tận dụng cơ hội cần phải có sự chủ động, tích cực nắm bắt, nghiên cứu thị trường, văn hóa tiêu dùng cũng như các tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật của các nền kinh tế.
Theo đó, doanh nghiệp muốn khai thác thị trường các nước thành viên CPTPP, buộc phải đổi mới năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; nhất là nắm rõ các quy định về quy tắc xuất xứ; cải thiện, đầu tư công nghệ sản xuất.
Ngoài ra, cơ quan chức năng cần cung cấp đầy đủ thông tin để doanh nghiệp tận dụng, khai thác được những quy định có lợi của CPTPP. Bởi trong một số nội dung cam kết có những quy định còn mới lạ với doanh nghiệp Việt Nam.
Đồng thời, Chính phủ cần tháo gỡ các rào cản về chính sách, tiếp tục thúc đẩy việc cắt giảm chi phí về thủ tục, thời gian, hỗ trợ hạ tầng cơ sở nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.
Đánh giá về những khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường này, theo các chuyên gia đó chính là quy tắc xuất xứ của CPTPP phức tạp hơn so với các FTA khác bởi rào cản để doanh nghiệp tận dụng được các lợi thế của Hiệp định là khác nhau.
Chẳng hạn như việc tiếp cận thị trường để hưởng ưu đãi thuế quan, các doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện, mà điều kiện quan trọng là đáp ứng yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ.
Thế nhưng, quy định về xuất xứ hàng hoá trong CPTPP có nhiều hình thức khác nhau đòi hỏi doanh nghiệp phải có quá trình sản xuất, mua nguyên liệu, canh tác theo tiêu chuẩn và tập hợp các hồ sơ chứng minh nguồn gốc hàng hoá hay tự chứng nhận xuất xứ C/O.
Liên quan đến quy tắc xuất xứ hàng hóa, ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) chia sẻ, đối với CPTPP, ngoài các quy định chung như xuất xứ thuần túy, xuất xứ không thuần túy, thay đổi theo hàm lượng khu vực cũng như thay đổi về quá trình sản xuất, có chuyển đổi cơ bản giữa các dòng thuế, trong một số các trường hợp, hiệp định yêu cầu mô tả thêm các quy trình cụ thể của hoạt động sản xuất.
Điều này đồng nghĩa với việc những yếu tố làm cho quy tắc xuất xứ chặt chẽ hơn, khó đáp ứng hơn, nhưng qua đó cũng để tránh tình trạng những nước không phải thành viên của hiệp định có thể hưởng lợi từ các quy định này.
Theo ông Trần Thanh Hải, Bộ Công Thương đã có một chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng lợi ích từ FTA; trong đó, có Hiệp định CPTPP. Ngoài ra, các hoạt động sẽ được tăng cường thời gian tới như phổ biến, tuyên truyền các cam kết cũng như quy tắc xuất xứ.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương sẽ đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu trên nền tảng số, hỗ trợ kết nối giao thương; tuyên truyền và hỗ trợ doanh nghiệp phòng tránh nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này.
Ninh Thuận thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp sạch Ninh Thuận có 12 sản phẩm đặc thù như nho, táo, hành, tỏi, măng tây xanh, cừu, dê, tôm giống, nước mắm... Để gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, cung cấp các sản phẩm an toàn phục vụ nhu cầu tiêu dùng, năm 2022 tỉnh Ninh Thuận đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kỹ thuật vào sản xuất nhằm...